Tản mạn về Trà &
Trà Đạo.
Lý Lạc Long
Lý Lạc Long
Tản mạn về Trà & Trà Đạo.
MỤC LỤC
Tản mạn về Trà & Trà Đạo.
Lý Lạc Long
Tản mạn về Trà & Trà Đạo.
Hầu như mọi dân tộc, mọi
xứ sở trên trái đất đều biết uống trà. Theo
ước tính, đây là loại nước uống phổ biến nhất sau "nước"
và mỗi ngày thế giới tiêu
thụ chắc không dưới
một tỉ
tách
trà đủ các loại.
Theo sách
vở ghi
lại
thì tục uống trà của nhân
loại bắt nguồn từ Trung Quốc. Theo
cuốn Trà kinh, của Lục Vũ
viết
năm 780 (Lục Vũ
là một cuồng sĩ đất
Hồng Tiệm đời Ðường, thường lang thang
ngâm
thơ rồi khóc. Ông để lại
cho đời sách Trà Kinh gồm
ba quyển bàn về trà,
gốm trà, cách pha
và uống trà, được người
đời sau gọi là ông tiên
trà,
thờ làm ông tổ của trà đạo Trung
Quốc) thì uống trà
bắt đầu từ thời Thần Nông, truyền
sang Chu
Công nước Lỗ. Như vậy loài
người biết uống trà vào
khoảng năm 3300
- 3100 trước Công nguyên.
Qua các thời đại Trung Quốc, tục uống trà và tác dụng
của cây trà ngày được nâng cao và khai
thác triệt để. Cách
uống
trà cũng theo những con
đường
buôn bán tơ lụa, đồ gốm và
qua
sự giao lưu của các thương gia
tỏa ra khắp thế giới.
Cuối thế kỷ 11 đầu
thế kỷ 12, cùng với
thiền, trà ở Trung Hoa tràn sang Nhật. Người Nhật tiếp thu cả
hai thứ
văn hoá vật chất và tôn giáo
này, đem
nó hoà quyện
với văn hoá bản địa và nâng lên
thành
triết
lý
riêng của dân tộc Nhật gọi
là
Trà đạo. Theo
truyền thuyết Nhật, vào khoảng thời gian này, có một vị
cao tăng người Nhật là sư Eisai
(1141-1215), sang Trung Hoa để tham vấn học đạo. Khi trở
về nước,
sư Eisai mang theo
một số hạt trà về trồng trong sân chùa. Sau này chính Eisai
này đã sáng
tác ra cuốn "Phẩm
Trà
Dưỡng Sinh Ký"
(Kissa Yojoki),
nội dung ghi lại mọi chuyện
liên
quan tới
thú uống trà. Những công dụng của trà về mặt y khoa và hương vị
hấp dẫn đặc biệt của trà đã thu
hút
Tạo Ebook: Nguyễn Kim Vỹ
Nguồn
truyện: vnthuquan.net
Tản mạn về Trà
& Trà Đạo.
Lý Lạc Long
nhiều
người dân Nhật đến
với cái thú uống trà.
Họ đã
kết hợp thú uống trà với tính
Thiền của Phật
giáo để nâng cao nghệ thuật
thưởng thức trà,
phát triển nghệ thuật này trở thành trà
đạo. Trà đạo phát triển
dựa trên triết lý xem uống
trà như là một thú
tiêu khiển thanh tao và nghi
lễ
của việc uống trà do
các sư Thiền tông
đặt ra để giữ cho
họ thức tỉnh. Đến
đời thiền sư Senno Rikyu (1521-1591) thì trà đạo
ở Nhật thực sự trở thành
một nghệ thuật
gắn liền với đời sống thiền thông
qua việc định nghĩa
các yêu cầu của trà đạo
như là sự hài hòa, tĩnh lặng,
thanh khiết và trang trọng. Như Kakuzo
Okakura
đã viết trong cuốn "Quyển
sách về Trà" xuất bản vào
năm 1906: "Trà đạo là một giáo phái
được sáng
lập dựa trên lòng tôn thờ cái
đẹp, cái đẹp giữa những thực tế nhớp nhúa trần ai. Trà
đạo bao gồm
những nghi lễ thiêng liêng thấm đượm chất tâm
linh tôn giáo, biến việc uống trà trở thành
một cuộc
lễ.
Bất
cứ một thiền thất nào của môn
phái Trà đạo đều có
những
trà thất. Tuy được xây dựng hết sức giản
dị, tự nhiên nhưng được coi
là
nơi thiêng liêng nhất.
Đó là những gian nhỏ
được ghép bằng tre,
gỗ, lợp tranh rất
nguyên sơ.
Trong nhà bài trí
một vài bức thư pháp cổ,
hoặc
tranh thuỷ mạc. Một bếp
đun nước, một lò hương thơm, một
lọ hoa cắm chỉ một bông như mọc
lên từ kẽ đá.
Ngồi
trong căn
phòng lặng im nghe tiếng
nước sôi nhè nhẹ như tiếng gió.
Người
ta cảm thấy như ngồi giữa một thảo
am
nơi sơn dã, chỉ có mây trắng và tiếng nhạc thiên
nhiên làm bạn, lòng cảm
thấy thanh thoát. Con
người như vượt
lên trên những giới
hạn tương đối và một thoáng nhìn vào
vĩnh cửu. Ấm trà được sắp
lên toả hương thơm thanh
cao, tinh khiết. Uống chén
thứ nhất thấy lòng tĩnh
lặng, tâm không còn dao
động, tự soi được vào cõi tâm mình.
Thiền nhân gọi đó là trạng thái vấn tuệ.
Uống xong chén thứ hai
thấy
nơi ấn đường ấm nóng, tư duy thiền sắp
được khai thông.
Uống
xong chén thứ ba cả hai
trạng
thái
trên đều biến mất. Thân
xác như hoà
vào trời đất.
Người ta nói đó là đạt tới
thiền
và là Trà đạo."
Theo hai cuốn sách “The Empire of Tea:
The Remarkable History of the Plant That
Took Over the World”
( Đế Quốc Trà ) của Alan
Macfarlane and Iris Macfarlane và “Tea: Addiction, Exploitation,
and
Empire” (Trà: Nghiện,
Bóc
Lột, và Đế quốc) của Roy Moxham
mới xuất bản gần
đây
thì các tác
giả
người
Anh này thuật lại
thì các nhà buôn
bán Tây phương để ý đến trà vào
khoảng thế kỷ 17.
Cuốn “Đế quốc trà” mở đầu với một
hồi ký ngắn và cảm động của Iris về
nhận thức văn
hóa
mà bà mang theo cùng chồng đến nông
trại trồng trà Assam. Bà viết: "Tôi lớn lên với tất
cả những mưu
mẹo, những lời
nói hoa mỹ : rằng „Bên ấy ở Ấn Độ‟ có những người da
ngăm thấp
kém
không thể
cứu
chữa, những người rất may mắn được
chúng ta cai trị".
Sau
đó thì tác giả kể lại những tình trạng
đối xử tàn
bạo đối với những công nhân làm việc trong các nông
trại trồng trà, những hồi tưởng buồn
bã. Cuốn "Đế quốc trà" phân tích một cách dí dỏm sắc nước của trà và qua đó
suy
luận về vai trò của
trà trong việc duy trì
một hệ thống trật
tự xã hội theo
đẳng cấp ở Anh. Tác giả còn tìm
cách trả lời một câu
hỏi : Có phải quả thật trà đã thuần hóa người
Anh? Có phải trà làm
cho những người
da
trắng,
thích ăn thịt
đỏ và uống bia trở thành những người
hiền lành hơn và dễ mến hơn?
Không! Đó
là câu trả lời. Những người
Anh, chủ đồn điền trà, khinh
miệt công nhân người
bản xứ, họ cho đó là
Tạo Ebook: Nguyễn Kim Vỹ
Nguồn
truyện: vnthuquan.net
Tản mạn về Trà
& Trà Đạo.
Lý Lạc Long
những cu-li (coolies). Họ đối xử
tàn bạo đối với những phu người địa
phương và gây cho cái
chết
cho hàng trăm
ngàn người. Theo
thống kê của Moxham,
cho đến năm 1900, hơn 200 ngàn mẫu trà
được khai khẩn và trồng
trong rừng Assam,
và nó làm mất đi sinh mạng của hàng trăm
ngàn người
phu Ấn Độ nhưng chỉ vài mạng người Anh.
Đó chỉ là một
thảm
nạn trồng trà ở vùng Assam; nhiều
thảm nạn còn
xảy ra ở Darjeeling, Tích Lan (Ceylon),
và
nhiều nơi khác. Quy trình
sản xuất trà ở Ấn
Độ được mô phỏng theo cách tổ chức sau cuộc Cách
mạng
kỹ nghệ: giờ
làm việc dài, điều kiện làm
việc cực xấu,
và thiếu an toàn. Macfarlane viết: “Công nhân
trở thành một phần của bộ máy sản xuất
khổng lồ. Trong bộ máy đó họ là những con người làm việc không hồn. Cái
giá nhân sinh mà con
người phải
trả
cho những công việc nhàm chán và không cần đến
trí óc, đó là chưa kể đến
tình trạng công nhân
phải đứng hết
giờ này sang giờ
khác
để hái trà. Thật
khó tưởng tượng nổi!”
Trà, ngoài
là
thức uống và những công dụng tốt cho sức khỏe , cái lá cây thơm
ngát" này đã là đề tài
làm say mê nghệ nhân
để sáng tạo ra những bình sứ
thời xưa ở Việt Nam,
Nhật Bản và Trung Hoa.
Trà đã là chất
xúc-tác khuyến
khích
các tay thực dân
Âu châu ; là chất châm ngòi
cuộc chiến tranh
Nha phiến; là cảm hứng cho
cho những nhà thiết kế thuyền
bè vào thế kỷ 19th; và là một trong
những nguồn cung cấp sinh lực
cho cuộc Cách mạng kỹ nghệ .
Gần đây ở Việt
Nam
có nhiều "trà quán" mở
cửa
theo nhu cầu của thị trường, tôi tình cờ
đọc một số
bài viết so sánh và
tỏ ý ngưỡng mộ nghệ thuật
uống
trà của Nhật
và Trung Hoa. Phải
công
nhận là
các nước khác thành công hơn Việt Nam trong việc quảng bá truyền thống
tốt đẹp của dân
tộc họ. Trà đạo của Nhật nổi tiếng đã lâu,
và Trung Hoa thì
cũng vậy. Mặc dù theo truyền
thuyết thì
Việt Nam đã biết đến trà từ thời
Ðông Hán và trà đạo Việt
thành
hình khoảng vào đời nhà Ðường. Sách
Trà Kinh
của Lục Vũ nhập đề
rằng "trà là loài
cây lớn ở phương nam". Chứng tích trà đạo
Việt còn
lưu lại trên những bình
bát trà gốm Việt Dao từ thời Bắc thuộc,
lên
đến tột đỉnh thời Lý, Trần, thời Phật giáo
thịnh nhất trong lịch sử VN.
Trà
đạo Việt là đạo
mà không đạo, đạo
vô môn quan: không cửa vào,
không
lối ra. Cũng như Việt Nam,
lúc
bấy giờ Phật giáo
ở Nhật bén rễ vào giới thế quyền.
Tăng sư là khách quý của các sứ quân và các phú hào. Họ học Phật rồi tiêm nhiễm
luôn đạo thưởng
trà. Uống trà nhằm luyện con
người khu trừ những chướng
ngại phiền não, để đạt chỗ rốt
ráo
của an bần
lạc đạo, hòa đồng với
Tự Nhiên, tức là Chân Như.
Và uống trà,
hành trà đạo phải có
các trà khí
mà ngành gốm
Nhật bấy giờ rất
phôi thai. Nên trà gốm
từ Cao Ly, Trung Hoa, Ðại Việt
đưa
sang giá đắt, chỉ được xử
dụng giới hạn trong
hàng sứ quân
và đại phú. Thay vì hấp thu
nếp thanh bần, họ bèn mượn trà đạo
làm trò trà dư tiêu khiển, đặt
ra các quy tắc kiểu cách (Cha
No Yu), muốn vào phải qua cổng
Hữu Môn Quan. Trà đã đưa thiền
vị đạm bạc vào
trú ngụ
chỗ đền các xa hoa.
Trong khuôn viên
cung đình nguy nga, các lãnh
chúa sai dựng nên
trà
thất bắt chước lều
cỏ bần hàn của ẩn sĩ để
hành
trà đạo.
Còn bên nước Việt, đạo đã từ cung cấm
ra đi,
bỏ phú quý phù vân để phiêu
bồng
nơi cảnh
thật của "rừng trúc lắm
chim" (Trúc lâm
đa túc điểu) như thơ ngài
Huyền Quang. Các vua Lý, Trần
Tạo Ebook: Nguyễn Kim Vỹ Nguồn
truyện: vnthuquan.net
Tản mạn về Trà
& Trà Đạo.
Lý Lạc Long
bỏ
kinh về núi, thực hiện hạnh
tầm đạo, dẫm theo bước chân của đức Phật. Đây là chỗ
khác biệt
trong lịch sử thiền
đạo
Việt
- Nhật .
Thời đại chúng ta đang sống, kỹ thuật
hiện đại cho phép mọi người tiếp xúc với môi
trường bên
ngoài,
với các nền
văn
hoá
khác nhau trên
thế giới, tạo điều kiện cho việc học hỏi
các
điều mới lạ và
bổ ích để mở mang
kiến thức , để áp dụng
cho lợi ích của bản
thân và đất nước .
Nhưng chúng ta
phải biết gạn lọc và đừng quên
gốc rễ của mình. Ngưỡng mộ , thích
và trân trọng Trà đạo của Nhật
Bản hay Trung Hoa thì cũng tốt,
nhưng
so sánh và chê bai
nghệ thuật và
phong cách uống trà hay trà
Việt Nam
là
một điều không đúng và nhất là khi dựa vào chỉ
mấy "trà quán" phục vụ
nhu cầu
nhất thời của thị trường.
Cái áo Kimono của Nhật,
áo sường - sám
của Trung Hoa, cái
áo dài
của Việt
Nam.... mỗi
cái có những nét đẹp riêng.
Ở đời không có gì
là
tuyệt đối hoàn hảo. Và
người ta thường
nói " có nằm trong chăn mới biết chăn
có rận", và không có một quốc gia nào
hoàn hảo hơn một quốc gia nào.
Tách
trà thơm ở Việt Nam đã từ lâu là quà đón khách,
là
tâm tình của chủ nhà
với khách viếng thăm.
Không
thể nói là vì người VN không pha chế trà cầu
kỳ
như người Nhật
hay người
Trung hoa và vì
vậy
mà thịnh tình của chủ
với khách suy giảm.
Phần
tôi thì với nghệ thuật
uống trà theo Trà đạo của Nhật bản hay Trung hoa thì cũng rất
ngưỡng mộ, và áo
Kimono hay sường sám, cũng rất
đẹp mắt...
Nói cách khác là tôi chỉ "cỡi ngựa xem
hoa" . Nhưng tách
trà Việt nam tôi
sẽ pha đãi khách và chiếc áo dài
VN vẫn là đẹp nhất ,
gần gũi
thân
thương nhất. Lý do rất đơn giản : Vì
tôi là người
Việt Nam .
Riêng về phong cách
uống
trà hay thiền đạo
thì vô môn quan (Việt Nam)
hay hữu
môn quan (Nhật
Bản) ... "tốt" hơn
? Tôi
xin phép gởi đến các bạn câu truyện "Trà Đạo" dưới đây :
"Khách
đến viếng một trà thất, chủ
nhân tiếp đón theo nghi
phong trà đạo Nhật
Bản,
khách thì lại cứ
rót
uống tự nhiên không theo
luật lệ nào cả. Chủ nhân liền thuyết
trình
về
trà đạo, về cách
pha
trà và phong thái uống trà … v.v.
Nghe xong khách
nói:
- À, thì ra trà đạo
là vậy. Tôi lại tưởng đạo
trà
là khát thì uống thôi chứ. Rồi khách xuất khẩu ngâm:
Xưa nay trà
là đạo. Khát cứ việc uống
thôi. Nghĩ thêm trà với đạo.
Ðầu thượng
trước đầu rồi!"
Mời các bạn
tách
trà thơm (pha kiểu Việt Nam) và chúc tất cả một cuối tuần như ý .
Lý Lạc Long
(TTL/TCT/MAI7/9/05)
Tạo Ebook: Nguyễn Kim Vỹ
Nguồn
truyện: vnthuquan.net
Tản mạn về Trà
& Trà Đạo.
Lý Lạc Long
Lời cuối: Cám
ơn bạn đã theo dõi hết cuốn truyện.
Nguồn: http://vnthuquan.net
Phát hành:
Nguyễn Kim Vỹ.
Đánh máy: Lý Lạc Long
( TTL ) Nguồn:
Được bạn: Ct.Ly đưa lên
vào ngày: 16 tháng 3 năm
2006
Tạo Ebook: Nguyễn Kim Vỹ
Nguồn
truyện: vnthuquan.net