Thứ Ba, 8 tháng 2, 2011

10 năm cuôc lữ ( thích tuệ sỉ)

Ngọn gió đưa anh đi mười năm phiêu lãng
Nhìn quê hương qua chứng tích điêu tàn
Triều đông hải vẫn thì thầm cát trắng
Chuyện tình người và nhịp thở của Trường sơn

Mười năm nữa anh vẫn lầm lì phố thị
Yêu rừng sâu nên khóe mắt rưng rưng
Tay anh vói trời cao chim chiều rủ rỉ
Đời lênh đênh thu cánh nhỏ bên đường

Mười năm sau anh băng rừng vượt suối
Tìm quê hương trên vết máu giữa đồng hoang
Chiều khói nhạt như hồn ai còn hận tủi
Từng con sông từng huyết lệ lan tràn

Mười năm đó anh quên mình sậy yếu
Đôi vai gầy từ thủa dựng quê hương
Anh cúi xuống nghe núi rừng hợp tấu
Bản tình ca vô tận của Đông Phương

Rồi ngày ấy anh trở về phố cũ
Giữa con đường còn rợp khói tang thương
Trong mắt biếc mang nỗi hờn thiên cổ
Vẫn chân tình như mưa lũ biên cương.


Ta làm kẻ rong chơi từ hỗn độn
Treo gót hài trên mái tóc vào thu
Ngồi đếm mộng đi qua từng đọt lá
Rũ mi dài trên bến cỏ sương khô

Vì lêu lỏng mười năm dài gối mộng
Ôm tình già quên bẵng tuổi hoàng hôn
Rồi một sáng nghe chim rừng đổi giọng
Người thấy ta xô giạt bóng thiên thần

Đất đỏ thắm nên lòng người hăm hở
Đá chưa mòn nên lòng dạ trơ vơ
Thành phố nọ bởi mưa phùng nắng quái
Nên mười năm quên hết mộng giang hồ.
...

Này đêm rộng như khe rừng cửa biển
Hai bàn tay vén lại tóc tơ xưa
Miền đất đỏ trăng đã gầy vĩnh viễn
Từ vu vơ trong giấc ngủ mơ hồ

Một lần định như sao ngàn đã định
Lại một lần nông nỗi vết sa cơ
Trời vẫn vậy vẫn mây chiều gió tĩnh
Vẫn một đời nghe kể chuyện không như

Để sống chết với điêu tàn vờ vĩnh
Để mắt mù nhìn lại cuối không hư
Một lần ngại trước thông già cung kỉnh
Chẳng một lần lầm lỡ không ư ?

Ngày mai nhé ta chờ mi một chuyến
Hai bàn tay vén lại tóc tơ xưa
...

Đôi mắt ướt tuổi vàng cung trời hội cũ
Áo màu xanh không xanh mãi trên đồi hoang
Phút vội vã bỗng thấy mình du thủ
Thắp đèn khuya ngồi kể chuyện trăng tàn

Từ núi lạnh đến biển im muôn thuở
Đỉnh đá này và hạt muối đó chưa tan
Cười với nắng một ngày sao chóng thế
Nay mùa đông mai mùa hạ buồn chăng ?

Đến tóc bạc tuổi đời chưa đủ
Bụi đường dài gót mỏi đi quanh
Giờ ngó lại bốn vạch tường ủ rũ
Suốt nguồn xa ngược nước xuôi ngàn.


hậu hắc học( lý tôn ngô)

Hậu Hắc Học

Lý Tôn Ngô, tác giả của “Hậu Hắc Học”, sinh ở Thành Đô năm 1879, năm thứ 5 đời Quang Tự (triều đình nhà Thanh), mất năm 1944 (trước cách mạng Trung Quốc thành công 5 năm). Lúc mới sinh, cha mẹ đặt cho ông cái tên là Thế Toàn, ông cho rằng tên đó không hay, nên tự đặt tên là Thế Giai, tự là Tôn Nho, muốn biểu lộ ý chí theo Khổng Tử; về sau ông không vừa ý với đạo Nho của Khổng Tử, cho nên đổi tên và lấy biệt hiệu là Tôn Ngô. Theo ông “hai chữ Tôn Ngô là ngọn cờ độc lập tư tưởng của tôi”
Sau cách mạng Tân Hợi năm 1911 ở Trung Quốc, ông đã từng đảm nhận một vài chức quan nhỏ ở cấp Tỉnh của Chính phủ Dân quốc do Tôn Trung Sơn lãnh đạo, làm giáo sư đại học ở Tứ Xuyên, về sau ông từ chức và dành thời gian nghiên cứu và viết.
Lý Tôn Ngô đã từng nghiên cứu, đọc kỹ lưỡng 24 pho sử lớn của Trung Quốc, các sách của Bách gia Chư tử và nhiều sách khác nữa, nhằm khám phá sự nhận thức của lịch sử, cũng như các học thuyết khác nhau từng tồn tại lâu đời ở Trung Quốc như Đạo Khổng, Đạo Lão, Đạo Phật và cả những học thuyết khác trên thế giới đã được truyền bá vào Trung Quốc. Khi sinh thời, ông đã tìm tòi, suy nghĩ rất nhiều về những người từ thời xưa đến thời ông, họ có “bí quyết”gì? Ông đem nhận thức của mình chỉnh thành lý luận “Hậu Hắc Học”.
Chữ “Hậu” có nghĩa là “Dày” và được viết rõ là “Mặt dày”; Chữ “Hắc” “Đen”, cũng được viết rõ là “Tâm đen” hay “Tâm can đen tối”. Theo ông đây là một triết lý rất đặc biệt, vì vậy trong khi dịch, chúng tôi phải viết hoa ở đầu các chữ “Hậu Hắc Học” với ý định nhấn mạnh ý nghĩa của từ ngữ mới lạ này.
“Hậu Hắc Học” chế giễu một cách sâu cay sự đen tối của một số chế độ chính trị với những bệnh tật, thói hư tật xấu trong chốn quan trường của xã hội Trung Quốc cũ. “Hậu Hắc Học” lần đầu tiên được công bố trên “Công luận nhật báo” ở thành đô năm Dân quốc nguyên niên, nhưng vì nội dung châm biếm rất sâu cay của nó về thói hư tật xấu trong chốn quan trường nên đã dấy nên sự đố kỵ và bị công kích dữ dội. Qua nhiều năm sau, năm 1934 mới chính thức xuất bản thành sách và được giới học giả cùng với nhiều học giả của Trung Quốc hưởng ứng, bình luận rất tốt. Trong mấy chục năm sau cách mạng Tân Hợi, xã hội Trung Quốc bị rối loạn, do đó tác giả ũng khắc họa và phân tích những hiện tượng xã hội và các “Chính trị gia” thời đó trong “Hậu Hắc Học”. Do đó có nhiều học giả nổi tiếng ở Trung Quốc đã bình luận và đánh giá: “Hậu Hắc Học” là một kỳ thư hiếm có. Để chứng minh cho lập luận “Hậu Hắc Học” của mình, ông đã đi sâu nghiên cứu tâm lý học và viết tiếp “Tâm lý và lực học”, “Tính linh và điện từ”, đó là những công trình nghiên cứu mà ông rất tâm đắc.
Theo nhà xuất bản “Cầu Thực” ở Bắc Kinh Trung Quốc. “Hậu Hắc Học” đã được truyền bá rộng rãi ở nước ngoài nhưng ở lục địa Trung Quốc lại hiếm thấy, vì vậy nhà xuất bản “Cầu Thực” cho rằng không thể để một cuốn sách hay như vậy bị mai một, cho nên đã sưu tầm, chỉnh lý lại và xuất bản. Từ tháng 1/1989 đến tháng 5/1990 đã in lại 8 lần với tổng số lượng 300.000 bản.
Toàn bộ cuốn sách được viết vào những năm 20, 30 và 40 của thế kỷ XX, vì vậy các từ ngữ, câu văn phần lớn viết theo kiểu cổ văn (Văn bác cổ) của Trung Quốc, nên khi dịch không dễ dàng. Chúng tôi cố gắng dịch thoát ý, nhưng lại bảo đảm đúng, lời lẽ gọn. Do đó chắc không tránh khỏi những thiếu sót, mong các độc giả thông cảm.
Ngoài ra, chúng tôi muốn nói thêm, toàn bộ cuốn sách có ý nghĩa rất sâu xa, rất đáng để học giả Việt Nam nghiên cứu. Nhưng tác giả có bàn thêm một số vấn đề viết vào thời kỳ đầu của thế kỷ XX, như: “Tôn Ngô bàn về chính trị”, “Tôn Ngô bàn về kinh tế”…Chúng tôi cho rằng đó chỉ là ý kiến riêng của một học giả, cũng như bản thân Lý Tôn Ngô cho rằng: ông chủ trương “độc lập tư tưởng”, nên các độc giả đều có quyền bình luận, đánh giá và phê phán.
Để bạn đọc thuận tiện theo dõi và tập trung nghiên cứu, chúng tôi sắp xếp lại mục lục và lược bỏ vài phần xét thấy không cần thiết như “Hậu Hắc Học” thể cổ văn, những câu đối viếng Tôn Ngô, vài đoạn phiếm đàm khác, mong bạn đọc thông cảm.
Chúng tôi xin được cảm ơn nhà xuất bản Văn hóa thông tin đã góp ý và hỗ trợ công tác biên tập để tài liệu tham khảo này được góp phần nhỏ bé vào việc tiếp thu có phê phán và chọn lọc những tinh hoa văn hóa Đông – Tây trong quá trình hội nhập và phát triển vì một nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc của chúng ta

Những người dịch












Tôi viết “Hậu Hắc Học” vào cuối triều đại Mãn thanh, chia làm 3 tập: Tập đầu: Hậu Hắc Học; Tập giữa: Hậu Hắc kinh; tập cuối: Tạp lục Hậu Hắc truyện. Năm đầu của thời Dân Quốc đã đăng tải trên “Công luận nhật báo” ở Thành Đô. Độc giả có nhiều dư luận xôn xao, tôi cũng nhận được lời khuyên của bạn bè, tập giữa mới in nữa chừng đành phải dừng lại vậy. Trong thời gian ấy, tôi còn viết một bài: “Tôi hoài nghi các thánh nhân”, nhưng không tiện đăng lên báo chí. Về sau không biết bản thảo quăng đâu mất. Năm Dân Quốc thứ 16, theo ký ức mới viết lại cả hai bài, đưa vào tập sách. Năm Dân Quốc 23, một người bạn quên biết ở Bắc Kinh, theo ý chủ quan, đem ba tập tách ra in từng tập lẻ. Năm Dân Quốc 25 theo ý muốn của nhiều độc giả nên đã tái bản lần nữa. Năm Dân Quốc thứ 26, nhà xuất bản Quốc Dân báo Thành Đô đã đem tập đầu in thành một cuốn sách nhỏ và phát hành, do Đường Chu PhongTrung Giang Tạ Thụ Thanh  viết lời bạt.
Khi tôi còn đi học tính thích hoài nghi. Trong lòng tôi lúc nào cũng có điều hoài nghi ấy, tiếp tục nghiên cứu thêm nữa, cho tới nay trải qua hơn 30 năm vẫn rút ra một kết luận như nhau. Gần đây viết một tập sách: “Tâm lý và lực học”, nhằm coi đó là lời giải đáp cho sự hoài nghi ấy. Phàm những việc ở ngoài đời có phá mới có xây: “Hậu Hắc Học”“Tôi hoài nghi các thánh nhân”, có thể gọi là phá; “Tâm lý và lực học” được gọi là xây. “Tôi hoài nghi các thánh nhân”“Hậu Hắc Học” là những tập viết trong cùng một thời kỳ, sau đọc hết những bài trong đó sẽ thấy quá trình tư tưởng của tôi.

Thế giới luôn luôn tiến hóa, có thể chia “Hậu Hắc Học” ra thành ba thời kỳ:
Nhân dân thượng cổ còn mông muội, không phân biệt cái gì là Hậu (dày) và cái gì là Hắc (đen), quả là một thứ lãng mạn chân chất. Học thuyết của Khổng tử đề xướng đạo đức, mộng tưởng về Nghiêu Thuấn và mong muốn trở lại phong thái cổ xưa, là Thời kỳ thứ nhất
Về sau, tri thức của nhân dân được nâng lên, diễn ra hàng trăm cơ mưu biến hóa, có những loại tâm đen tối như Tào Tháo, mặt dày như Lưu Bị được sinh ra và vận dụng, thời này dẫu Khổng, mạnh có sống lại cũng phải thất bại mà thôi, đó là thời kỳ thứ hai.
 Nay đã bước vào thời kỳ thứ ba, những kẻ tâm đen tối như Tào Tháo, mặt dày như Lưu Bị, xuất hiện ngày càng nhiều, người thành công lại ít. Những người gặp vận may mà thành công, hoặc những kẻ không biết quay gót đành chịu thất bại, là nguyên cớ thế nào? Này nay là thời kỳ thứ ba nên Tào, Lưu đã trở thành những nhân vật quá khứ rồi, những người ở thời kỳ này tất phải kham khảo và vận dụng đạo đức của Khổng, Mạnh, dường như phục hồi thời kỳ thứ nhất, thực tế thì giống như hồi phục mà không phải là hồi phục, mà là sự tiến hóa kiểu xoáy tròn như con ốc. Nói cách khác, phải có tấm lòng của Khổng, Mạnh; thực hành theo thuật của Tào, Lưu mới hợp với thời kỳ thứ ba; ngày nay, Khổng, Mạnh có sống lại, tất chịu là kẻ thất bại mà thôi, nếu không có những thuật của Tào, Lưu; Nếu Tào, Lưu có sống lại chăng nữa cũng là kẻ thất bại, vì họ không có tấm lòng Khổng, Mạnh.
Hiện nay chúng ta đang sống là thời kỳ thứ hai, mở đầu thời kỳ thứ ba, nếu vận dụng theo “Hậu Hắc Học”  mà thành công thì cũng là vật tàn dư của thời kỳ thứ hai, tuy thành công song vẫn là kẻ thất bại và bị đào thải tự nhiên của thời kỳ thứ ba.
Nghiêu, Thuấn là những nhân vật của Thời kỳ thứ nhất, sách của Khổng, Mạnh là học thuyết của Thời kỳ thứ nhất. Tào, Lưu là nhân vật của thời kỳ thứ hai; “Hậu Hắc Học” là do tôi viết, là học thuyết của thời kỳ thứ hai. “Tâm lý và lực học” mà tôi viết gần đây nhất là học thuyết của thời kỳ thứ ba. Hy vọng sẽ có những nhân vật của thời kỳ thứ ba xuất hiện, cho nên đọc “Hậu Hắc Học” của tôi, không thể không đọc “Tâm lý và lực học”.
Vật mà ít thì quý, phong cách của người dân lúc sơ khai hồn nhiên, chân chất, không có bộ mặt dày, đen tối. Bỗng nhiên có người tâm địa vừa đen và có bộ mặt dày, tất sẽ khống chế được dân chúng, độc chiếm ưu thế. Dân chúng thấy thế sẽ bắt chước, anh không thể chế ngự được tôi, tôi không thể chế ngự được anh, chỉ độc có một người không có bộ mặt dày, tâm địa đen tối thì người ấy ắt được mọi người tín ngưỡng, thế là độc chiếm ưu thế. Thí dụ trong thương trường người buôn bán hồi sơ khai nhất có hàng tốt với giá thực, bỗng có một người làm hàng giả kiếm được nhiều tiền. Mọi người biết thế, tranh nhau làm như vậy, thế là cả thị trường điều là hàng giả. Chỉ độc có một nhà làm hàng thật đúng giá trị thì sẽ được khách, người ấy lại kiếm được nhiều tiền. Cho nên tình hình thương trường cũng có thể chia thành ba thời kỳ: Thời kỳ thứ nhất nội dung tốt, hình dáng không đẹp; thời kỳ thứ hai hình dáng đẹp, nội dung không tốt; thời kỳ thứ ba hình dáng đẹp, nội dung tốt.
“Hậu Hắc Học” của tôi là sản phẩm của thời kỳ thứ hai. Những độc giả “Hậu Hắc Học” của tôi, cứ làm theo sách sẽ bị thất bại, điều đó tôi không chịu trách nhiệm.Chỉ trách bản thân người ấy đã sinh sau đẻ muộn hơn nhiều năm nên không thấy tình hình xã hội đã thay đổi. Rồi lại hỏi: Làm thế nào không thất bại? Hãy đọc “Tâm lý và lực học”


Ngày 26 tháng 02 năm Dân Quốc thứ 27
Phú Thuận, Lý Tôn Ngô,Viết ở Thành Đô








Toàn văn “Hậu Hắc Học” vốn được dùng trong “Tôn Ngô luận Đàm”, trên báo: “Thượng Hải luận ngữ bán nguyệt san” đăng lại, báo này cũng đã chuyển in thành một tập sách, ban đầu xuất bản ở Bắc Kinh. Lại tái bản ba lần ở Thành Đô, ủy thác cho Thành Đô Hoa Tây nhật báo xã và Trùng Khánh tiêu thụ và bán hêt sạch. Năm nay tôi ở chỗ quê cũ, các nơi đều gởi thư yêu cầu tái bản. Tôi cho rằng sách viết của tôi như vậy dễ gây cho người ta hiểu lầm, nên không muốn nói gì thêm nữa. Một người bạn tôi là Vương Quân Yêm Mặc Hàm nói: “Ba chứ “Hậu Hắc Học” đã được truyền bá trong miệng của mọi người, không tài gì thu hồi lại được, tôi đã từng đọc kỹ toàn bộ tác phẩm của anh, “Hậu Hắc Học” là một căn bệnh xã hội, các tác phẩm của anh chính là thuốc chữa bệnh. Tôi xin gợi ý, anh tốt nhất nên hệ thống lại toàn bộ tư tưởng, những điểm quan trọng của tác phẩm viết lại một cách tỷ mỷ, tường tận, thành bản phát minh của Hậu Hắc Học”, cùng một lúc nói lên cả căn bệnh và phương thuốc chữa trị, khiến các nhân sỹ xã hội hiểu được dụng ý của anh, nếu không chỉ lưu truyền cho đời sau ba chữ “Hậu Hắc Học” mà thôi, nếu như vậy anh sẽ chịu tội trước xã hội”. Tôi cảm động sâu sắc những lời của Vương Quân, viết một bài “Hệ thống tư tưởng của tôi”, gửi cho Vương Quân in, ai hiểu tôi và trách tôi cũng không có cách nào khác


Ngày 06 tháng 02 năm Dân Quốc thứ 29 ở Tạ Lưu Tỉnh























Phần Một


Chương Một

HẬU HẮC HỌC

Kể từ khi tôi đi học biết chứ đến nay luôn nghĩ mình muốn làm một anh hùng hào kiệt, tìm học Tứ Thư, Ngũ Kinh đều thấy hoang mang, lại tìm đọc các tác phẩm của Bách Gia Chư Tử, cả 24 pho sử nữa, vẫn không đạt được gì, cho rằng các vị anh hùng hào kiệt xưa tất phải có một bí quyết nào đó không truyền lại , có lẽ tôi là kẻ dốt nát, không sao tìm được . Cùng quẫn không tài gì hiểu được, nhiều khi quên ăn quên ngủ, cứ thế trong nhiều năm trời. Một hôm bỗng nghĩ tới những nhân vật thời Tam Quốc, không ngờ lại bừng tỉnh nhận ra rằng: “Thấy rồi! Thấy rồi! các vị anh hùng hào kiệt xưa kia chẳng qua chỉ là những kẻ mặt dày tâm địa đen tối mà thôi
Những vị anh hùng thời Tam Quốc, trước hết phải nêu lên Tào Tháo, sở trường đặc biệt của ông, tất cả đều ở tâm địa đen tối: Ông giết Lữ Bá Sa, giết Khổng Dung, giết Dương Tu, giết Đổng Thừa Phục Hoàn, giết Hoàng Hậu, Hoàng tử, ngang nhiên làm tất cả, hơn nữa còn trắng trợn nói: “Thà phụ người, không để người phụ ta”. Quả là tâm địa đen tối đến cực điểm, đã có những việc làm như vậy, đương nhiên gọi là anh hùng cái thế rồi
Tiếp đến phải kể đến Lưu Bị, sở trường đặc biệt của ông ta đều tất cẩ trên bộ mặt dày. Ông ta dựa vào Tào Tháo, dựa vào Lã Bố, dựa vào Lưu Biểu, dựa vào Tôn Quyền, dựa vào Viên Thiệu, chạy khắp đông tây, dựa dẫm vào người ta rồi lại bỏ, thật là vô liêm sỉ. Hơn nữa suốt cuộc đời chỉ giỏi khóc, người viết Tam Quốc Chí đã mô tả ông ta thật khéo tài tình, hễ gặp việc gì không thể giải quyết được là khóc một hồi trước mặt người đối thoại, lập tức chuyển bại thành thắng. Cho nên tục ngữ có nói: “Giang sơn Lưu Bị là nhờ có khóc mà được!”. Đó cũng là một anh hùng có bản lĩnh. Ông ta và Tào Tháo có thể nói là một cặp tuyệt vời. Khi họ hâm nóng rượu luận bàn anh hùng trong thiên, một kẻ có tâm địa đen tối, mặt kẻ mặt dày mặt dạn, tôi không thể làm gì được anh, đều xoay quanh chuyện bọn viên Bản sơ bỉ ổi vô cùng, cho nên Tào Tháo nói: “Anh hùng trong thiên hạ, chỉ duy có sứ quân và Tào này mà thôi!”
Ngoài ra còn có Tôn Quyền, ông ta với Lưu Bị là  đồng minh, hơn nữa còn là chỗ anh vợ thân tình, bỗng nhiên lại cướp đoạt kinh châu, giết chết Quan Vũ, tâm địa đen tối phảng phất như Tào Tháo, cái tâm địa đen tối ấy khôn cùng tiếp đó lại cầu hòa với Thục. Mức độ đen tối của Tôn Quyền kém một chút so với Tào Tháo, Tôn Quyền đã cũng Tào Tháo sánh vai xưng anh hùng đã từng chống lại không chịu thua, bỗng nhiên lại xưng thần với Tào, thế là mặt dày mặt dạn phảng phất giống Lưu Bị, dày đến mức độ lại tuyệt giao với Ngụy, bộ mặt dày cũng chỉ kém Lưu Bị một chút mà thôi. Tôn Quyền tuy không đen tối như Tào, nhưng lại có đủ cả hai thứ cũng không thể không coi là một anh hùng. Cả ba người nếu mổ xẻ việc làm của từng người một thì đều là câu chuyện “Anh không thể chinh phục được tôi, tôi không thể chinh phục được anh” cho nên thiên hạ thời đó không thể không chia làm ba vậy
Về sau Tào Tháo, Lưu Bị, Tôn Quyền nối tiếp nhau chết cả, cha con họ Tư mã thừa cơ nổi lên. Ông thâu tóm cả sự tham lam của Tào, Lưu, đã thành công lớn nhờ nắm được môn “Hậu Hắc Học”, ông ta lừa dối những người vợ góa con côi, tâm địa đen tối như Tào Tháo vậy; có thể chịu mọi nhẫn nhục, mặt dày mặt dạn còn hơn cả Lưu Bị. Tôi đọc lịch sử một đoạn Tư Mã Ý chịu nhẫn nhục, khi nhận bộ quần áo đàn bà rồi, bỗng đập bàn  lớn tiếng: “Thiên hạ phải thuộc về họ Tư Mã!” cho nên khi có thời cơ ấy, thiên hạ không thể không thống nhất. Đây là “Việc đến tất phải đến, lễ đời cố nhiên là như vậy”
Võ Hầu Gia Cát là bậc kỳ tài trong thiên hạ, một người giỏi nhất trong thời Tam Quốc. Khi gặp Tư Mã Ý cũng không làm gì nổi, ông ta quyết tâm “Phải cúc cung tận tụy cho đến chết thì thôi”, cuối cùng không dành được tấc đất nào ở Trung Nguyên nữa, rút cục hộc máu mà chết. Có thể thấy cái tài phò tá nhà vua cũng không phải là địch thủ của những kẻ nổi tiếng “Hậu Hắc
Tôi lấy những việc làm của mấy người, nghiên cứu  đi nghiên cứu lại, mới phát hiện được bí quyết không hề truyền lại của thời xưa này. Cả 24 bộ sử điều nhất quán  họ là “Hậu Hắc cả mà thôi”. Bây giờ lại đem những sự việc của nhà Hán để chứng minh thêm.
Hạng Vũ là một anh hùng bạt sơn cái thế. Tiếng quát của ông vang động làm hàng ngàn người bạt vía, tại sao phải chịu chết ở Đông Thành làm trò cười cho thiên hạ? Nguyên nhân thất bại của ông ta đã được Hàn Tín nói lên bằng hai câu: “Lòng nhân ái của người vợ, sự dũng cảm của người chồng”, đã bao quát đủ rồi. Lòng nhân ái của người vợ là trong lòng không có sự bất nhẫn, căn bệnh ấy là do tâm can không đen tối; sự dũng cảm của người chồng là không chịu nín nhịn, căn bệnh ấy không phải ở bộ mặt dày. Bữa tiệc ở Hồng Môn, Hạng Vũ và Lưu Bang cùng ngồi một chiếu, Hạng Vũ đã rút kiếm ra, chỉ cần kề vào cổ Lưu Bang thì cái chiếu bài “Thái Cao Hoàng Đề” sẽ về ông ta ngay. Hạng Vũ vẫn cứ loanh quanh không nỡ nhẫn tâm, thế rồi Lưu Bang trốn thoát. Sự thất bại của Hạng vũ ở Cai Hạ, nếu vượt được Ô Giang, khuấy đảo lại giang sơn chưa biết ai sẽ chết. Ông ta lại nói: “Mượn tám ngàn người con cháu đất Giang Đông, vượt sông sang phía tây, nay không còn một ai trở về được, giả sử anh, em, bố, mẹ họ ở bên kia sông vẫn thương nhớ ta, còn mặt mũi nào mà gặp họ. Giả sử họ không nói thì lòng ta tránh sao hổ thẹn được!?”. Câu nói ấy vô cùng sai lầm. Ông nói: “Mặt mũi nào mà gặp họ”. Lại nói rằng: “Lòng ta biết hổ thẹn!” rút cục bộ mặt thật của một con người cao cả là sao sống  được, rồi không suy nghĩ thêm rằng, lại than rằng: “Trời quên ta rồi, không phải tội là không đánh”. E rằng có lên trời cũng không sao thoát được!
Chúng ta nghiên cứu một chút những việc làm của Lưu Bang. Lịch sử đã ghi: Hạng Vũ hỏi Hán Vương rằng: “Thiên hạ đồn đại đã nhiều năm, quanh quẩn vẫn là những chuyện về hai ta, tôi quyết đánh một trận thư hùng với Hán vương”. Hán vương cười nói rằng: “Ta thà đấu trí, chứ không đấu lực”. Xin hỏi hai chữ “cười tạ” từ đâu ra vậy! Khi Lưu Bang gặp Lang Sinh vào lúc hai hầu gái đang rửa chân cho Lưu Bang, Lang Sinh trách ông là kẻ bề trên, ông ta lập tức không rửa chân nữa mà đứng dậy tạ lỗi. Thử hỏi hai chữ “Tạ Lỗi” từ đâu ra vậy? còn bố đẻ ông ta, ông ta đứng bên bàn thờ đặt một cốc nước cặn, còn đối với con gái thì ông ta lại rất thô lỗ, khi quân Sở truy đuổi đến, ông ta có thể đẩy con gái con gái xuống xe, về sau lại giết Hàn Tín, giết Bành  Việt “được sung quên ná, được vả bỏ sung”, thử hỏi tâm địa của Lưu Bang là trạng thái gì vậy, đâu được như  Hạng Vũ “Lòng nhân ái của người vợ, sự dũng cảm của người chồng”, quả là không phải là hạng hiếm thấy sao? Trong sách của Thái Sử Công có ghi: Chỉ có Lưu Bang có tướng mạo Hoàng Đế, Hạng Vũ thì mắt hai tròng, mà không một chữ nói đến, bộ mặt dày, tâm địa đen tối của hai người, viết sử như vậy không đáng hổ thẹn sao?
Mặt dày của Lưu Bang, tâm địa của Lưu Bang, so với những người khác biệt rõ ràng, có thể coi là tài trí, cao đạo. Chữ “Hắc” ở đây quả là “Sống hòa nhã, làm êm ả, không vượt quá giới hạn những gì mong muốn trong lòng”. Về chữ “Hậu” thì còn phải thêm quá trình học tập thầy học của ông ta là Trương Lương là cụ Dĩ Thượng. Tài đức cao rộng của họ vô cùng trong sáng đáng phải noi theo. Việc dạy học của Cụ Dĩ Thượng có biết bao tác dụng, không phải không dạy cho Trương Lương biết về những bộ mặt trơ trẽn, những kẻ không biết hỗ thẹn. Đạo lý này đã được Tô Đông Pha nói rất rõ ràng trong “Lưu Hầu Luận”. Trương Lương là người sớm có chí hướng tìm hiểu mọi lý lẽ đến nơi đến chốn, hễ nói lời nào là giác ngộ người khác, cho nên các bậc lão thành coi là người thầy của Vua chúa. Những diệu kế của ông, những người nông cạn thì không thể hiểu nổi cho nên trong sử ký nói: “Lời nói của Trương Lương,người thường không thể hiểu nổi, chỉ có Bái Công biết dùng thôi. Lương nói, Bái công được trời phú cho”. Đủ thấy học vấn như vậy tỏ rõ tư chất con người, những bậc thầy giỏi khó mà đạt được, những đồ đệ tốt cũng không dễ tìm ra. Khi Hàn Tín xin phong tước Tề Vương, Lưu Bang dường như hiểu lầm, xưa nay toàn dựa vào thầy mình, đứng lên mớm lời cho, na ná giống như các thầy giáo sửa bài tập cho học sinh trong nhà trường. Cái tư chất trời phú cho Lưu Bị có khi còn có sai lầm, sự tinh thông học vấn ở đây có thể thấy được
Tư chất trời phú của Lưu Bang khá tốt, học lực lại sâu, đả phá tất tật năm đạo luân thường từ xưa truyền lại: Vua tôi, cha con, anh em, vợ chồng, bạn bè rồi quét sạch những điều lễ nghĩa, liêm sỉ cho nên có thể thu phục được đám anh hùng khác, thống nhất đất nước, xây dựng nhà Hán kéo dài tới bốn trăm mấy chục năm sau. Cho đến khi bộ mặt dày, tâm địa đen tối của ông ta bị tiêu hủy thì hệ thống nhà Hán mới tiêu vong.
Thời kỳ Hán Sở tranh hùng, có một người mặt rất dày, tâm địa không đen tối, cung quy lại thất bại, người đó là ai? Đó là Hàn Tín mà ai nấy đều đã biết. Đã chịu cái nhục là chui qua háng người ta, ông ta có thể nhẫn nhục chịu đựng, mức độ trơ trẽn không kém gì Lưu Bang. Song ông ta lại thiếu chứ “Hắc” (tâm địa đen tối), khi ông ta làm Tề vương, nếu ông ta nghe lời Băng Thông , thì quý hóa biết bao, nhưng ông ta lại khăng khăng nhớ tới ân huệ  nhường cơm sẻ áo của Lưu Bang nên nói rằng: “Mặc áo của người ta, phải nghĩ tới người cho mình ăn cơm của người ta cho, thì phải làm việc gì cho người ta dù có chết”. Về sau chuyện xẩy ra ở nhà Trường Lạc Chung khiến ông ta đầu lìa khỏi cổ, di hại tới cả chín họ. Thật là mình làm mình chịu. Ông ta nói về Hạng Vũ là nhờ lòng nhân ái của người vợ, đủ thấy tâm địa ông ta không đen tối, thế mà làm việc vẫn chịu thất bại. Bản thân ông ta biết nguyên tắc lớn ấy, nên cũng không đáng trách Hàn Tín.
Đồng thời lại có một người nữa, tâm địa đen tối mà bộ mặt thì không dày nên cũng chịu thất bại. Người này thì ai nấy cũng biết, họ Phạm, tên Tăng. Lưu Bang công phá Hàm Dương, đem theo cả con nhỏ, vẫn thúc đẩy quân tiến đánh, nhưng không hề xâm phạm vơ vét sợi tơ sợi tóc nào cả. Phạm Tăng thì tâm địa đen tối cũng từa tựa như Lưu Bang, tìm trăm phương ngàn kế, chỉ mong dồn Lưu Bang vào chỗ chết, chỉ có bộ mặt là không trơ trẽn nhưng lại nóng tính. Hán vương dùng kế của Trần Bình , bị ly gián với vua Sở, Phạm Tăng đùng đùng nổi giận tìm cách bỏ đi, về đến Bành Thành, bị ung nhọt sau lưng rồi chết. Phàm những người làm việc lớn lại có cái tình khùng nóng nẩy như vậy? “Phạm Tăng mà không ra đi, Hạng Vũ mà không chết”, nếu họ có thể nhẫn nại một chút, những sơ hở của Lưu Bang vốn có rất nhiều và có thể tiến công dễ dàng. Phạm Tăng phẫn chí bỏ cuộc, vứt đi tất cả sinh mệnh của mình, cả giang sơn của Hạng Vũ, vì không nhẫn nại được việc nhỏ, đã làm hỏng việc lớn. Tô Đông Pha còn coi ông là nhân vật anh kiệt, liệu có phải là một vinh dự quá đáng lắm không?!
Nghiên cứu những sự việc nói trên, học vấn về “Hậu Hắc Học” là như vậy, phương pháp rất đơn giản, dùng đến lại rất thần diệu, dùng ít hiệu quả nhỏ, dùng nhiều hiệu quả lớn. Lưu Bang, Tư Mã Ý đã học được hết mới thống nhất Trung Quốc được sao? Tôi nói: “Sách Trung Dung của Đạo nho gia phải nói đến  Vô thanh vô Xú” (không tiếng vang, không thối) mới đạt được”.
Tóm lại từ thời tam đại cho tới ngày nay, các vương hầu, tướng soái, các hào kiệt, thánh hiền, nhiều đến nỗi không sao kể xiết, cứ xem việc làm của họ thì khắc biết, không có gì nằm ngoài những điều ấy. Sách có ghi chép đầy đủ cả, sự thật cũng khó nói sai. Các độc giả có thể theo con đường mà tôi đã chỉ và tự đi tìm lấy, tự nhiên sẽ thấy ngọn nghành phải trái, đạo lý rõ ràng

Chương hai

HU HC KINH


Lý Tôn Ngô nói: “Không mỏng gọi là dày, không trắng gọi là đen. Người mặt dày trong thiên hạ là kẻ tàn nhẫn”. Bài viết này là tâm pháp (phương pháp tâm lý học) của người xưa truyền thụ cho Tôn Ngô e rằng để lâu sẽ sai lạc đi, nên viết thành kinh sách để người đời sau tiếp thụ. Sách này mở đầu nói đến hai chữ “Hậu Hắc”, nó tản mát trong hàng ngàn hàng vạn sự việc, cuối cùng hợp lại thành Hậu Hắc. Nếu đặt riêng thành nguyên tắc thì có nhiều, nếu vo tròn lại thì ẩn giấu ngay ở bộ mặt và tâm can, nó vô cùng kỳ thú, đều là học thuyết thực dụng cả. Ai thích đọc choi cho vui cũng được, có nhiều người áp dụng suốt đời cũng không hết.
Nói Hậu Hắc là mệnh trời, nói Hậu Hắc một cách đại thể là Đạo, nói Hậu Hắc được một cách chỉn chu, Hậu Hắc là giáo, Hậu Hắc là như vậy, không xa rời nó được, nếu xa rời thì không còn là Hậu Hắc nữa. Cho nên quân tử giữ gìn cản thận sao không “Hắc”, nguy nhất là mỏng, là trắng, là quân tử phải có Hậu Hắc. Gọi là “Hậu”, tức là không để lộ những nỗi vui mừng, giận, buồn. Nếu để lộ ra mà không e ngại thì gọi là Hắc. Trong thiên hạ có vô khối loại Hậu như vậy, trong thiên hạ cũng rất nhiều người đạt như vậy, trong thiên hạ cũng rát nhiều người đạt được Hắc như vậy. Đạt được Hậu Hắc thì thiên hạ sợ, quỷ thần cũng kiêng nể.
Một chương của Hữu kinh: Tôn Ngô đặt ra những lời thuật lại bí quyết của người xưa không truyền lại. Lời thuật đầu tiên thì nguồn gốc của Hậu Hắc do trời sinh ra không thể thay đổi được, thật ra Hậu Hắc là thứ mình muốn có không thể tách rời. Bí quyết dạy dỗ Hậu Hắc là phải công phu đẩy lên thật cao, muốn học nó phải tự mình gạt bỏ nhân nghĩa bên ngoài. Hậu Hắc giữ cái tự nhiên vốn có của nó. Đó là điều chủ yếu của bài viết này, những lời lẽ dưới đây do Tôn Ngô nêu ra nhằm làm rõ nghĩa của chương này.
Tôn Ngô nói: Đạo của Hậu Hắc dễ mà lại khó, ân nghĩa vợ chồng có thể biết được và nó cũng đến thế mà thôi. Có những cái chưa biết về Tào, Lưu như những điều bất cập của đạo vợ chồng. Đạo Hậu Hắc cũng vậy, Tào Lưu cảm nhận nhiều điều lớn lao của Hậu Hắc, còn tiếc chưa hiểu biết hết, huống hồ người đời.
Tôn ngô nói: Người ta nói về Hắc (đen), nếu vội vàng quy nạp cả than vì chỉ là một màu. Người ta nói về Hậu (dày), nếu gặp đạn pháo bắn vào không thể vỡ nổi
Tôn Ngô nói: Đạo của Hậu Hắc là gốc của mình có thể chinh phục được chúng dân, khảo xét các vua chúa đều không sai, kiểm định lại trời đất không hề trái ngược, quỷ thần không nghi ngờ gì bản chất của nó; các vương hầu , các thánh nhân cả trăm đời cũng không nghi hoặc gì
Tôn Ngô nói: Vua nhờ ở gốc, vững ở Đạo mới lập nên được, Đạo Hậu Hắc cũng vậy, sao không phải là gốc của con người?
Tôn Ngô nói: Trời sinh Hậu Hắc ở ta, người đời không như ta sao?
Tôn Ngô nói: Ta không được thấy Lưu Bang thì nay được thấy Tào Tháo, ta không được thấy Tào Tháo, mà nay được thấy Lưu Bị, Tôn Quyền là được rồi.
Tôn Ngô nói: Một ấp có mười nhà tất có Hậu Hắc như Tôn Ngô, song lại không có thuyết minh của Tôn Ngô.
Tôn Ngô nói: Khi ta chưa ăn hết phần cơm bước vào Hậu Hắc, quả là gấp rút, tất phải đổ ngã
Tôn Ngô nói: Nếu có tài đẹp như Hạng Vũ, lại biết Hậu Hắc nữa, Lưu Bang không đủ sức địch nổi.
Tôn Ngô nói: Trồng ngũ cốc là đẹp lắm, nếu như không thành thạo thì chẳng khác gì cỏ. Người Hậu Hắc cũng phải thạo thạo như vậy đấy.
Tôn Ngô nói: các bậc Đạo học coi Hậu Hắc là giặc sống phải trung tín. Làm phải liêm khuyết, ai nấy đều mừng, tự cho là thế, chứ không thể nào là đạo của Tào, Lưu. Nên nói: Hậu Hắc là giặc vậy
Tôn Ngô nói: Sao lại không hoài nghi những người không Hậu Hắc! vạn vật tuy dễ sinh ra dưới gầm trời, một ngày nóng, mười ngày lạnh, cũng có những vật chưa ra đời. Ta thấy người ta nói về Hậu Hắc không phải là hiếm, ta đành lui và tìm đến thầy học đạo vậy! Làm sao có được thấy học Đạo như thế? Không chuyên tâm dồn chí  mà học thì không đắc đạo được. Tôn Ngô là người phát minh “Hậu Hắc Học”, phải để cho Tôn Ngô thu hút thêm hai người Hậu Hắc mới được. Một người chuyên tâm dồn chí, chỉ nghe lời Tôn Ngô nói. Một người dồn hết tấm lòng nghe nhằm đạt tới người thầy học đạo, suy nghĩ, đứng tên cùng các vị thánh hiền, được học như vậy thế đâu phải không gian khổ! Có được tư chất ấy chẳng phải là khổ luyện lắm ru?! Nói: không phải thế
Tôn Ngô nói: Việc thất bại ở đây, người quân tử tất là làm ngược lại, Ngô này không phải là Hậu, làm ngược lại Hậu tất nhiên thất bại, người quân tử cũng tự làm ngược lại. Ngô này không phải là Hắc nữa, tự phản ngược lại là Hắc, là chịu thất bại? Quân tử nói: người phản tôi thì cũng là người loạn trí vậy thôi! Như thế chẳng khác gì cầm thú! Dùng Hậu Hắc để giết cẩm thú cũng là khó làm sao
Tôn Ngô nói: Đạo Hậu Hắc vừa ác vừa thiện, tựa như sức leo núi gian khổ, chưa thử qua thì không thể tới được. Ví dụ, đi xa tự tất thấy xa, leo cao tự thấy rằng bản thân không Hậu Hắc không làm gì được cho vợ con ta, không biết dùng Hậu Hắc thì sẽ không thể làm được gì cho vợ con cả.
Tôi viết Hậu Hắc kinh ý muốn giúp cho người mới học, tiện cho việc đọc thành lời để tránh khỏi quên mất. Chẳng qua là có một vài đạo lý sâu xa quá, nên tôi phải thuyết minh thêm trong những lời văn của kinh sách thôi
Tôn Ngô nói: Không dày ư, có mài cũng không mỏng được; không đen ư, có rửa cũng không sáng được. Về sau tôi đổi thành: Không dày ư, càng mài càng dày; không đen ư, càng rửa càng đen. Có người hỏi tôi: “Thế giới làm gì có loại ấy?”. Tôi nói: “Vết sẹo ở chân tay, nếu càng mài càng dày; đã dính than bùn nếu càng rửa bụi than càng đen”. Da mặt con người rất mỏng, nếu mài xát từ từ thì dần dần sẽ dày thêm. Tâm con người mới sinh ra đã đen, gặp được người giảng giải về nhân quả, người nói về đạo lý, nắm được một vài đạo đức nhân nghĩa, phủ lên mặt mới thấy không đen được. Giả dụ đem rửa sạch những chỗ che phủ ấy, thì cái bản chất của đen lại tự nhiên xuất hiện
Tôn Ngô nói: Cái Hậu Hắc không phải do từ bên ngoài đào luyện, ta vốn có nó rồi. Dân được trời sinh ra có Hậu Hắc. Điều này có thể thí nghiệm: Có thể tìm một bà mẹ, nói bà bế con mình cho nó ăn cơm, đứa bé thấy mẹ cầm bát trong tay, nó sẽ giơ tay ra để kéo, nếu không đề phòng nó sẽ đập vỡ bát. Người mẹ cầm trong tay một cái bánh nướng đưa lên miệng, nó có thể với tay giật cái bánh trong miệng mẹ, nhét ngay vào mồm nó. Lại như đứa bé ngồi trong lòng mẹ uống sữa hay khi ăn bánh, thằng anh đến trước mặt nó, nó sẽ giơ tay đẩy thằng anh, đánh thằng anh. Những sự việc ấy đều không học mà có thể làm được, không phải suy tính mà biết được đấy, tức là “Biết giỏi làm giỏi” (Lương tri lương năng) vậy. Đem những điều biết giỏi làm giỏi ấy mở rộng thêm nữa, thì có thể làm nên sự việc kinh thiên động địa được, Đường Thái Tông giết Kiến Thành là người anh ruột, giết Nguyên Cát là em ruột, lại còn đem con cái của Kiến Thành và Nguyên Cát giết sạch cả, đem vợ Nguyên Cát nhốt vào hậu cung, lại bức bách bố phải nhường Thiên hạ lại cho ông ta. Những hành vi ấy của ông ta thật giống khi còn nhỏ giật miếng bánh trong miệng mẹ và đẩy thằng anh ra. Cái thứ biết giỏi làm giỏi ấy như kiểu đánh anh ruột đã được mở rộng ra vậy. Những người bình thường đã biết giỏi làm giỏi mà không biết cái đạo mở rộng thêm ra, duy chỉ có Đường Thái Tông đã mở rộng nó ra được, nên ông ta trở thành một anh hùng thiên cổ. Nên Tôn Ngô nói: Mùi vị ở mồm quên rồi, màu sắc hàng ngày đã quen với vẻ đẹp rồi, nó sẽ hiện lên mặt và in sâu vào trong lòng, sao lại quen thế nhỉ? Mặt và lòng dạ có cùng như nhau không? Gọi là Hậu cũng được, là Hắc cũng được, là người anh hùng đặc biệt biết những cái tai đã quen được biểu hiện trên mặt và lòng dạ của mình.
Đạo lý này của Hậu Hắc đã bày ra rất rõ rảng. Trước mắt, bất cứ người nào cũng thấy được. Chẳng qua, bởi thoạt nhìn thấy đã bị những lời văn kinh điển mê hoặc, hoặc học thuyết ccủa một tiên sinh giảng đạo dìm xuống che lấp đi mà thôi. Nên Tôn Ngô nói: Cây ở núi Ngưu Sơn đẹp lắm, lại đem trâu bò đến chăn ở đấy. Còn có những người như vậy, sao lại không có Hậu và Hắc vậy thay! Con người làm tản mất Hậu Hắc đi, cũng như người thợ đối với cây vậy, ngày nào cũng chặt, thì Hậu Hắc của anh ta không còn nữa. Hậu Hắc không còn, mà muốn làm anh hùng thật khó lắm thay! Người chưa thể trở thành anh hùng vì chưa trải qua Hậu Hắc. Vậy tính con người là ở đâu? Nếu không thể bỏ được bữa ăn, ngày càng dài càng thấm sâu Hậu Hắc, nếu buông lơi việc nuôi dưỡng Hậu Hắc thì Hậu Hắc sẽ kém sút từng ngày đấy.
Tôn Ngô nói: đứa bé thày có bánh nướng trong miệng mẹ đều biết cướp đoạt bằng được. Con người ta vốn có lòng dạ cướp miếng bánh trong miệng mẹ, nên có thể đem ra dùng vậy, rồi sau đó mở rộng ra để trở thành anh hùng, trở thành hào kiệt. Thấy như vậy nên nói: Người lớn không để mất lòng ham muốn của trẻ con. Nếu buông lơi không bổ sung cho đủ bảo vệ thân thể có thể coi như là vứt thân phận mình đó
Có một loại người thiên tư vô cùng cao đẹp, họ tự biết rõ cái đạo lý này, đều mang hết sức lực ra làm, rất bí mật không để ai biết. Nên Tôn Ngô nói: hành động mà không đọc sách, tập luyện mà không chịu khó, suốt đời sẽ không biết những kẻ Hậu Hắc nhan nhản đầy ra đấy.
Những học thuyết thế gian điều bị người ta hiểu lầm, duy chỉ có Hậu Hắc thì tuyệt nhiên không thể có ai hiểu lầm được. Dù có đi tới sơn cùng thủy tận, khi làm kẻ hành khuất xin miếng cơm ăn, cũng còn hứng thú hơn nhiều so với người khác, nên Tôn Ngô nói: Lớn thì từ Hoàng đế, nhỏ đến kẻ hành khuất, cũng đều lấy Hậu Hắc làm cái gốc cho mình
“Hậu Hắc Học” rất rộng lớn, uyên thâm. Người sở hữu nó sẽ trở thành người đắc đạo, cần phải chuyên tâm dồn chí học qua một năm, mới có thể ứng dụng. Học qua ba năm mới có thể thành công to được. nên Tôn Ngô nói: “Nếu như là người Hậu Hắc, thì cố gắng hết tuần hết tháng ắt được. Ba năm sẽ thành công”

Chương ba

TP LC HU HC TRUYN


Có người hỏi tôi rằng: “ Ông phát minh ra “Hậu Hắc Học”, tại sao ông làm việc gì cũng đều thất bại? Tại sao bản lĩnh học trò của ông cao hơn ông, việc nào ông cũng đều thua chúng cả?”
Tôi nói: “Ông nói thế sai rồi. Phàm những nhà phát minh đều không đủ sức leo lên tận đỉnh cao được. Đạo giáo là do Khổng tử phát minh, Khổng Tử đã leo lên tận đỉnh cao rồi, học vấn của Nhan, Tăng,Tử, Mạnh còn thấp hơn một bậc, học vấn của các vị sau này như Châu, Trình, Chu, Trương còn thấp hơn một bậc nữa. Càn theo thầy kiểu đó càng thấp, nguyên nhân của nó là vì bản lĩnh của giáo chủ quá lớn. Đại loại học vấn của những người phương Đông đều như thế cả. Lão tử trong Đạo giáo, Thích ca trong Đạo phật đều có cùng hiện tượng như vậy. Duy chỉ có khoa học phương tây lại không như thế, khi phát minh còn rất thô thiển, càng nghiên cứu càng tinh vi sâu sắc hơn. Người phát minh ra hơi nước chỉ biết cái lý của hơi nước sôi bốc lên làm bật nắp đậy nồi. Người phát minh ra điện chỉ biết được cái sự vận động của con ếch chết, những người đi sau tiếp tục nghiên cứu, chế ra các loại máy móc có biết bao tác dụng mà người phát minh ra điện và hơi nước, trước đó không có thể ngờ được. Đủ thấy rằng khoa học của phương Tây là người sau hơn hẳn người trước, học trò đã vượt hon thầy dạy. “Hậu Hắc Học” của tôi giống như khoa học của phương Tây, tôi chỉ có thể nói lên hơi nước bốc lên làm bật cái vung nồi, sự vận động của con ếch chết. Trong đó có biết bao đạo lý, rồi mong chờ người  sau nghiên cứu nữa, bản lĩnh của tôi kém hơn các học trò, gặp họ tất nhiên sẽ thất bại. Bản thân họ lại bị các học sinh họ dạy cho sau này đánh bại. Đời sau sẽ thắng đời trước, tự nhiên “Hậu Hắc Học” sẽ sáng lạn lên nhiều!”
Lại có người hỏi: “Ông nói “Hậu Hắc Học” thần diệu như vậy, tại sao không thấy ông làm được một số việc thật oanh liệt?”
Tôi nói rằng: “Tôi xin hỏi, Khổng Phu Tử của chúng ta rốt cục làm được bao nhiêu việc oanh liệt cơ chứ? Những điều mà ông ta nói là để làm chính trị, xây dựng các vương quốc, một nước có dư ngàn đạo lý, rút cục thực hiện được mấy việc cho một nước có nền chính trị tốt đẹp?
Bộ sách đại học do Tăng Tử viết chuyên nói về trị quốc bình thiên hạ, xin hỏi sự trị quốc của ông ta ở nơi nào? Thiên hạ thái bình ở đâu? Bộ sách Trung Dung của Từ Tư đã viết về “Trung hòa vị dục” (là chủ nghĩa trung dung, không thiên vè một bên nào cả, hoặc không thiên vè một bên nào thái quá hoặc thiên về sự bất cập), xin hỏi chủ trương “Trung hòa vị dục” của ông được áp dụng ở đâu vậy? Ông không đi hỏi các vị ấy, mà quay lại chất vấn tôi. Khi gặp được những người thầy sáng suốt, còn đạo lý thì khó nghe, những phương pháp tinh vi sâu sắc và khéo léo chưa từng có ấy có tới hàng nghìn hàng vạn nhưng khó gặp. Ông đã nghe mà vẫn hoài nghi, thế thì sao tránh khỏi tự mình đã lầm?”
Năm Dân Quốc thứ nhất, khi tôi công bố “Hậu Hắc Học”, gặp người bạn họ La, mới làm việc ở huyện X, đã từng xem xét biết bao công việc nói một cách rất vui mừng rằng, phải chỉnh đốn như thế nào. Lại nói: Vì một việc nào đó, đã bị thất thố, vứt bỏ chức quan rồi, vụ án đến nay vẫn chưa kết thúc được, rồi thấy vô cùng chán nản. Tiếp đó lại bàn đến “Hậu Hắc Học”, tôi nói cho ông ấy biết tất cả nguyên văn, ông ấy được nghe tỏ ra rất thích thú vị; nhân lúc ông ta say sưa nghe, tôi đứng phắt dậy, đập bàn, đanh giọng lại nói: “Ông La! Ông làm việc cả đời, lúc thắng lúc bại, rút cục nguyên nhân thành công của ông ở đâu? Nguyên nhân thất bại ở chỗ nào? Tóm lại ông có thể bỏ sót hai chữ Hậu Hắc được không? Nhanh lên! Nhanh lên! Không được phép chậm trễ, hoài nghi nữa”
Ông ta nghe lời tôi nói, như tiếng sét bên tai, ngây ra một lúc lâu mới than thở rằng “Quả không thể rời hai chữ ấy ra được”. Ông bạn họ La ấy, cuối cùng có thể nói là một thằng ngốc.
Tôi công bố “Hậu Hắc Học” đã dùng hai chữ biệt hiệu là “Độc Tôn” với ý muốn nói: “Trong thiên hạ có tôi là Độc tôn mà thôi”. Viết thư cho bạn bè cũng dùng biệt hiệu, cuối cùng tôi lại viết là Thục Tù. Có người hỏi: “Giải thích hai chữ Thục Tù là như thế nào?”
Tôi trả lời: “Tôi công bố “Hậu Hắc Học”, có người nói tôi là điên rồ, xa rời kinh sách, phản lại Đạo không thể không nhốt vào trại những người điên”. Thế thì tôi đã trở thành kẻ tù tội ở đất Thục rồi, vì thế biệt danh là Thục Tù
Sau khi tôi công bố “Hậu Hắc Học”, rất nhiều người ra sức thực hành, làm cho Tứ Xuyên thành một vương quốc Hậu Hắc. Có người hỏi tôi: “Thủ lĩnh Trung Quốc không phải ông thì còn ai nữa?”. Tôi nói: “Thế thì tôi đã trở thành Tù trưởng ở đất Thục rồi”. Vì vậy mới lấy tên là Thục tù. Tôi giảng giải “Hậu Hắc Học”, lại có người trở thành đệ tử chăm chỉ của tôi, mặc áo, dùng bát kiểu của tôi. Nhưng cuộc sống của tôi là đến các nhà đưa bát xin cơm. Cái bát ấy phải giữ lại để dùng, chỉ còn cái áo da chó của tôi cho anh ta mặc, cho nên chữ chữ Độc đã mất theo con chó, thành chữ Thục. Những đệ tử cao thủ của tôi có rất là nhiều, đệ tử tốt là cao thủ (tác giả viết cao túc, là chân cao) còn thầy dạy là loại thấp kém. Chân của đệ tử cao tới một trượng, còn chân của Thầy dạy chỉ ngắn một tấc, cho nên chữ Tôn lược bỏ chữ “Thốn” (nghĩa là 1 tấc) thành ra chữ “Tù”, vì nguyên nhân ấy tôi đành gọi là “Thục Tù” vậy
Tôi phát biểu về  “Hậu Hắc Học”, nói chung những người đã đọc, nói rằng: “ Học vấn của ông về bộ môn này uyên thâm rộng lớn, chúng tôi đã đọc cuốn sách đó, tựa như đọc Trung Dung, Đại học nói chung, không rời khỏi tay được, xin hãy vì cái thân phận thấp hèn mọn của chúng sinh, hãy nói lên tất cả những cách thực hiện, truyền thụ tất cả những cách thực dụng nữa, chúng tôi mới có thể theo đó để làm cho tốt được”
Tôi trả lời: “Các vị muốn làm cái gì cơ?”. Đáp rằng: “Tôi muốn làm quan, hơn nữa còn muốn làm sao rất oanh liệt, nói chung mọi người đều muốn làm đại chính trị gia cả”. Vì thế tôi đã truyền cho họ,  “Sáu chân ngôn cầu làm quan”, “Sáu chữ chân ngôn để làm quan” và “Hai cách làm việc khéo”

SÁU CHỮ “CHÂN NGÔN” CẦU LÀM QUAN

Sáu chữ “Chân ngôn” cầu làm quan: “KHỐNG, CỐNG, XUNG, PHỦNG, KHỦNG, RỖNG”. Ý nghĩa của sáu chữ này rất nổi tiếng như sau:
1. Khống:
Tức là rỗi rãi, chia làm hai loại: Một là, nói về công việc, người cầu làm quan phải bỏ mọi công việc ra ngoài đã, không làm thợ, không buôn bán, không nghĩ đến việc cày bừa, cấy hái, cũng không học hành, người làm quan phải kiên nhẫn, không thể vội vàng, hôm nay không được thì ngày mai lại tới, năm này không được thì sang năm lại tới
2. Cống:
Chữ cống này mượn trong tục ngữ của Tứ Xuyên. Ý nghĩa của nó tương tự như xiên thủng “Xiên vào rồi lại xiên ra”, có thể nói là “Cống nạp vào lại rút lấy ra được”. Cầu làm quan thì phải xiên thủng, đó là điều ai nấy đều biết, những định nghĩa thật không dễ, có người nói: “Định nghĩa của chữ Cống là có lỗ thủng thì phải xiên vào”. Tôi nói: “Thế thì sai! Nói như vậy mới được một nữa, có lỗ thủng phải xiên, không có lỗ thủng làm sao xiên vào được”. Định nghĩa của tôi là: “Có lỗ thủng phải xiên, không có lỗ thủng cũng phải xiên. Có lỗ thủng rồi phải khoan rộng ra, không có lỗ thủng  thì phải lấy cái dùi xiên một lỗ thủng mới”
3. Xung:
Lời nói phổ thông là: “Huyênh hoang, khoác lác”, ngôn ngữ của tứ xuyên là: “Bỏ đi cái đội đầu”, vứt bỏ trong lời nói và trên cả chữ nghĩa. Trong lời nói lại chia thành nói với dân thường và đứng trước mặt “cụ lớn”, trên chữ nghĩa cũng lại chia thành hai loại: báo, tạp chí và các thiếp trần
4. Phủng:
Tức là nịnh, có dáng điệu nịnh nọt, giống như Hoa Hâm khúm núm trước Ngụy công trên sân khấu là một điển hình
5. Khủng:
Có nghĩa là làm cho sợ hãi, là một động từ cập vật. Đạo lý của chữ này rất tinh vi, sâu sắc, tôi không dám nhiều lời. Chức quan là một vật cao quý nhường nào, làm sao có thể cho người khác một cách dễ dàng được? Có người chia chữ “Phủng” thành 12 vạn phần mà vẫn không đạt hiệu quả, vì không hiểu hết ý nghĩa của chữ “Phủng”.
Phàm là vị quyền cao chức trọng đều có chỗ yếu kém, chỉ cần tìm ra được điểm yếu của vị ấy, điểm nhẹ một huyệt, vị ấy sẽ hoảng hốt sợ hãi, lúc ấy lập tức đem chức quan ra tặng anh. Người học cần phải biết “Khủng”“Phủng” có tác dụng tượng hỗ. Người giỏi chữ “Phủng” thì trong nịnh có “Khủng”, người ngoài nghe những lời anh ta nói trước mặt “cụ lớn” thì câu nào cũng thấy đón đưa, vâng dạ, thực ra họ lại ngầm đánh vào điểm yếu. “Cụ Lớn” nghe rồi toát mồ hôi hột. người giỏi chữ “Phủng”, trong “Khủng” có nịnh, người ngoài coi anh ta là ngạo mạn, câu nói nào cũng trách cứ “cụ Lớn” thật ra người được nghe thì hài lòng, hân hoan và gân cốt lại “rã rời”, “trời mà sáng suốt, người khác được nhờ”, “người thợ giỏi cho người quy cách, không thể cho người tay nghề giỏi”. Người cầu làm quan phải hiểu từng ly từng tý là điều rất cần thiết, khi dùng chữ “Khủng” phải hết sức thận trọng, suy xét kỹ, nếu dùng quá mức, những bậc bề trên sẽ từ chỗ bị sỉ nhục thành phẫn nộ, làm như thế không phải là phản lại cái tôn chỉ lớn của việc cầu làm quan hay sao? Đó là điều khó xiết bao, khi hoặc cần đến mới dùng, không thể dùng chữ “Khủng” một cách nông cạn
6. Tống:
Tức là biếu quà, có thể chia làm 2 loại lớn nhỏ:
Biếu lớn: đem những bọc tiền, ngân phiếu đưa đi; Biéu nhỏ: thực hiện tặng quà tết, chân giò thui và mời đến quán ăn. Chia người được biếu làm hai loại: một là người có chức vụ thao túng quyền lực, hai là người chưa nắm quyền lực, nhưng lại có thể là trợ thủ của ta.
Thực hiện được 6 chữ trên, chắc chắn mỗi chữ đều đem lại những hiệu quả kỳ diệu. Các vị tai to mặt lớn khi ngồi một mình thường nghĩ và tự nói: “Anh X muốn làm quan, đã nói nhiều lần (đó là tác dụng hiệu quả của chữ “Không”). Hắn và ta có quan hệ gì? (đó là tác dụng của chữ “Cống”). Anh X có nhiều tài trí (đó là tác dụng hiệu quả của chữ “Xung”), hắn đối với ta rất tốt (đó là hiệu quả của chữ “Phủng”), nhưng người này có lắm mưu mẹo, nếu không bố trí, sẽ xẩy ra rắc rối (đó là hiệu quả của chữ “Khủng”), nghĩ đến đây, quay đầu lại nhìn những đống đen sì hoặc sáng long lanh đầy ắp trên bàn (đó là tác dụng hiệu quả của chữ “Tống”), không có gì phải nói thêm nữa, treo bài ngà lên, khuyết điểm nào đó là do anh X đưa lại. Cầu làm quan đến đây coi là mọi việc đã làm viên mãn. Vì thế cứ việc lên ngựa nhận chức, rồi thực hành chân ngôn 6 chữ của người làm quan


SÁU CHỮ “CHÂN NGÔN” CỦA NGƯỜI LÀM QUAN

Chân ngôn sáu chữ của người làm quan: “KHÔNG, CUNG, BĂNG, HUNG, LUNG, LỘNG”. Ý nghĩa của sáu chữ này như sau:
1.Không:
Có nghĩa là rỗng tuyếch. Một là trên văn tự: phàm những văn bản trình báo cấp trên, ra thông báo, đều chỉ là những lời lẽ chung chung, trống rỗng, trong đó kỹ năng viết rất khéo; tôi khó có thể nói kỹ, nếu tới các cơ quan quân chính, đọc hết các chữ văn bản dán trên tường sẽ hiểu hết thôi. Hai là, khi làm việc đều linh hoạt sống động, nghiêng sang tây cũng được, ngả sang đông cũng xong, có khi làm như sấm vang bão táp, thật ra bên trong lại lén lút tìm đường tháo lui, nếu thấy tình thế không lợi thì có thể quay người đi theo con đường khác, quyết không thể trói buộc bản thân mình.
2. Cung:
Có nghĩa là cung kính, khép nép, so vai, rụt cổ chia làm 2 loại trực tiếp và gián tiếp. Trực tiếp là nói với cấp trên, gián tiếp là nói với bạn bè thân thích, lính của cấp trên và các ông nọ bà kia.
3. Băng:
Tục ngữ gọi là bệ vệ, một chữ trái nghĩa với chữ “Cung”: Nếu nói với cấp trên và dân chúng thì chia làm hai cấp: Một là, biểu hiện bề ngoài tỏ ra là một nhân vật oai nghiêm, không ai xúc phạm được; hai là, trong trò chuyện tỏ ra đầy kinh sách, thông hiểu đại tài. Nói về chữ “Cung” đối với bát cơm trên mặt đất thì bất tất phải coi là trên mặt đất, nói về chữ “Băng” khi không có bát cơm trên mặt đất thì bất tất phải coi nhất định là cấp dưới và dân chúng. Khi quyền của bát cơm không thuộc về cấp trên;
khi quyền cái bát cơm thuộc cấp dưới hoặc dân chúng, lại đổi “Băng” thành “Cung”. Đạo lý của ta phải tỏ ra linh hoạt, vận dụng khéo léo và chỉ nằm trong suy nghĩ mình biết mà thôi.
4. Hung:
Chỉ có thể đạt được mục đích của ta khi bắt người khác quy phục, dù phải bán vợ đợ con cũng không được oán ghét nhưng phải chú ý một lớp vỏ nhân nghĩa đạo đức, phải phủ trên chữ “Hung”
5. Lung:
Tức là tai điếc: “Ai chê cười chửi mắng cũng mặc, làm quan ta cứ làm” nhưng trong người điếc còn hàm nghĩa người mù nữa, nếu trên văn bản, đơn từ có tỏ ra bực tức thì nhắm mắt không cần xem.
6. Lộng:
Tức là làm Tiền. Rồng bay đến đây kết huyệt, mười một chữ đặt ra ở trên đều phải nhằm vào chữ này. Chữ “Lộng” và chữ “Tống” trong cầu làm quan là hai mặt đối chiếu nhau, có biếu thì có móc. Phải hết sức chú ý chữ “Lộng” này là trong công việc làm sao phải chạy việc mới thành công, có khi không được việc dù phải móc túi ra cũng không sao; nếu được việc móc bao nhiêu cũng không cần khách khí làm gì.
Tôi chẳng qua mới hiểu thô thiển mười hai chữ trên đây, còn nhiều nghĩa tinh vi của nó chưa thể phát huy được. Những bậc làm quan có chí, có thể theo đó tìm ra bí quyết, xin tự nghiên cứu lấy.


HAI CÁCH LÀM VIỆC KHÉO

1. Cưa mũi tên:
Có một người bị tên bắn trúng mời thầy thuốc ngoại khoa đến chữa. Thầy thuốc cưa cán mũi tên, rồi đòi lễ tạ. Hỏi ông ấy tại sao ông ấy không rút đầu mũi tên ra. Thầy thuốc nói: đó là việc của khoa nội. Ông hãy tìm thầy thuốc khoa nội thì hơn. Đây chỉ là một mẫu chuyện xưa truyền tụng lại.
Sự làm việc của các cơ quan và các ông lớn đều dùng cách làm việc như thế cả:
Ví dụ phê một đơn từ: “Căn cứ đơn từ được đề trình lên, không thuộc cấp tôi giải quyết, sẽ gửi về quan huyện điều tra xem xét, xử lý nghiêm minh”. “Không thuộc cấp tôi”, mấy chữ này là cách cưa đứt cán mũi tên “việc của quan huyện” là thuộc về khoa nội. Lại có người cầu cạnh tôi làm một việc, tôi nói: “Tôi rất tán thành việc này, thế nhưng, còn phải thương lượng với một người nữa”. Ba chữ “Rất tán thành” là “ cắt cán mũi tên”, “Một người nữa” là khoa nội; hoặc lại nói: “Tôi sẽ làm trước một phần việc, “sau đó” là thuộc “khoa nội”. Có người chỉ cắt mũi tên, chứ không phải bảo người ta tìm khoa nội, cũng có khi không thèm cắt mũi tên, đã bảo người ta đi khoa nội, thật là đủ mọi cách xoay. Cứ suy xét kỹ khắc hiểu được
2. Cách hàn nồi:
Nồi nấu cơm bị dò, mời thợ hàn nồi đến hàn nồi, người thợ hàn dùng một mảnh sắt cạo nhọ dưới đích nồi, một mặt nói với chủ nhà: “Xin ông nhóm lửa để tôi đốt bụi than nhọ nồi”; khi chủ nhà quay người đi nhóm lửa, anh ta lấy búa gõ nhẹ mấy cái vào đít nồi, vết nứt ấy đã rộng ra nhiều, và khi chủ nhà quay lại, anh ta chỉ cho chủ nhà xem, và nói: “Vết nứt trong đáy nồi này của ông rất dài, mỡ bên trên phủ kín, không nhìn thấy được, tôi cạo nhọ than thì đã hiện rõ lên rồi, nếu không chèn mấy cái đinh vào thì không được”. Chủ nhà cúi đầu xuống xem: “Giỏi, Giỏi! hôm nay không gặp được anh, thì e rằng cái nồi này không dùng được nữa”. Sau khi hàn xong, chủ nhà và thợ hàn nồi đều rất vui mừng và anh thợ hàn ra đi.
Trịnh Trang Công dung túng Công Thúc Đoạn khiến hắn làm nhiều điều bất nghĩa, nên mới cất công trừng trị, đó là một cách hàn nồi. Trong lịch sử có rất nhiều loại này. Có người nói: “ Ở Trung Quốc đổi nhiều cách làm, có rất nhiều nơi làm cả việc cắt thịt ra để chữa bệnh”. Đó chính là các quan lớn thay đổi cách làm, dùng theo cách hàn nồi mà thôi. Trong chốn quan trường nhà Thanh trước kia đại để đều dùng cách cưa cán tên và hàn nồi hỗ trợ nhau.
Hai cách làm khéo nói trên đây là những ví dụ chung của cách làm việc, vô luận là xưa hay nay, trong hay ngoài nước, nếu hợp với những ví dụ chung ấy thì đều thành công. Làm ngược với ví dụ chung ấy sẽ thất bại. Quản Trọng là nhà chính trị lớn của Trung Quốc, ông ta làm việc đều dùng hai cách đó. Người Địch (dân tộc ít người ở miền Bắc Trung Quốc, xưa kia gọi là dân man rợ) đánh nước Vệ, nước Tề án binh bất động, chờ đến khi người Địch đánh tan nước Vệ, mới ra tay nghĩa cử “Hưng binh để cứu nước bị diệt”, đó là cách hàn nồi. Không nên trách nước Sở tiếm xưng Vương miện với chiến dịch Triệu Lăng, mà trách vua nước Sở chiếm đoạt tất cả mà không chịu cống nạp, đó là cách cưa cán mũi tên vậy. Thời ấy thực lực nước Sở thắng nước Tề không khó lắm, song Quản Trọng dám khuyên Tề Hoàn Công cử binh đánh Sở, có thể nói là đập nát đáy nồi để hàn lại. Đến khi nước Sở tỏ rõ thái chống lại, ông ta lập tức làm cái việc kiểu như cưa cán mũi tên. Chiến dịch Triệu Lăng là kiểu lúc đầu dùng cách hàn nồi, cuối cùng dùng cách cưa cán mũi tên, Quản Trọng gõ đáy nồi nát ra rồi lại có thể hàn lại được. Cho nên gọi là bậc kỳ tài trong thiên hạ.
Viên quan Võ Minh Quý đã mang quân vây chặt bọn giặc cỏ, lại cố ý cho chúng chạy ra. Đó là dùng cách hàn nồi. Sau đó không chặn được chúng đến nỗi đất nước bị tàn phá, vua bị giết. Đập nát nồi khiến không hàn được nữa cho nên gọi là “kẻ bầy tôi ngu xuẩn phạm tội với quốc gia”. Nhạc Phi muốn khôi phục Trung Nguyên đã đón Nhị Đế trở về, ông ta chỉ mới vừa có ý đồ rút mũi tên ra đã bị rước lấy tai họa bị giết. Minh Anh Tông trước đó cũng bị bắt, Vu Khiêm đưa vua trở về, ý đồ là rút hẳn mũi tên ra, nhưng vẫn chuốc lấy tai họa bị giết. Vậy, nguyên do ra sao? Vì đã vi phạm những ví dụ chung
Tể tướng Vương Đạo của triều đình nhà Tấn khi có một tên phản tặc, không cất quân đi đánh. Đài Khản trách tể tướng, ông ta viết thư trả lời: Ta luôn mong mỏi ngày đêm chờ túc hạ. Khản xem bức thư này cười và nói: “Ông ta chẳng mong mỏi ngày đêm” gì đâu. Vương Đạo “mong mỏi ngày đêm” để chờ Đào Khản, tức là đẩy đầu mũi tên chờ thầy thuốc khoa nội. Các quan khóc lóc ở triều đình, Vương Đạo biến sắc mặt nói: “Đương lúc hợp sức cứu Vương Thất, khắc phục thần châu, làm gì đến nỗi làm tù nhân cho Sở mà phải khóc”. Ông ta ra mặt bất bình nghiễm nhiên trừng mắt… ra điều sẽ đi hàn nồi, thực ra chỉ nói vài câu lời lẽ đẹp, rồi coi thế là xong. Tưởng nhớ Nhị đế đang bị giam cầm ở miền Bắc, suốt đời không thể trở về, mũi tên vẫn chưa rút ra được, hành động đó của Vương Đạo, có vài chỗ giống như Quản Trọng, vì vậy trong lịch sử gọi ông ta là “Giang tả di Ngô” (Kẻ thích ở ngoài vùng Giang Tả - Ý nói là kẻ phản bội). Nếu độc giả thực hành theo những cách làm mà tôi đã nói, đảm bảo sẽ trở thành con cháu Quản Trọng,một nhà chính trị lớn bậc nhất.
KẾT LUẬN

Tôi đã nói hết “Hậu Hắc Học” rồi, đặc biệt muốn nói với các độc giả một bí quyết, phàm khi sử dụng Hậu Hắc, thì nhất định phải thoa lên mặt một lớp nhân nghĩa đạo đức, chớ không để nó biểu hiện ra một cách lộ liễu. Sự thất bại của Vương Mãn là do cái nguyên cớ để lộ ra hết cả. Nếu Vương Mãn suốt đời không để lộ thì e đến nay trong miếu của Khổng Tử còn có thể viết “Bài vị bậc tiên nho Vương Mãn” được ăn quá nhiều thịt lợn nguội (Tác giả dùng chữ “thịt lợn nguội” là những vật mang đến lễ ở đền, miếu, ý châm chọc cay độc).
Trong bài “Khó nói” của Hàn Phi Tử có nói: “Hãy dấu kín lời anh nói, và chỉ lộ cái gì biểu lộ trên người anh”. Phàm là học trò của tôi nhất định phải hiểu được cung cách đó. Giả dụ có người hỏi anh: “Có thừa nhận Lý Tôn Ngô không?”. Bạn hãy dùng sắc mặt rất nghiêm trang và nói rằng: “Người đó cực kỳ xấu, hắn nói về “Hậu Hắc Học”, tôi không thừa nhận hắn được”. Mồm tuy nói như thế, còn trong lòng lại rất cung kính, cung kính coi như: “Lý Tôn Ngô là một vị đại thánh, là tổ sư của thánh”. Nếu có thể làm được như vậy, thì bảo đảm bạn sẽ làm nên rất nhiều sự nghiệp kinh thiên động địa, được người đời ngưỡng mộ. Sau khi chết còn được đưa vào miếu của Khổng Tử ăn thịt lợn nguội nữa. Cho nên mỗi khi tôi nghe người ta chửi tôi, tôi rất vui mừng, nói rằng: “Đạo của ta được thực hiện nhiều đấy
Tôi nói: “Phải bôi một lớp nhân nghĩa đạo đức bên ngoài Hậu Hắc”. Đó là chỉ nói khi gặp các Thầy giảng dạy về đạo đức. Giả dụ khi gặp những bạn bè mà nói đạo đức, bạn cũng cùng hắn nói nhân nghĩa đạo đức, thế chẳng thú vị hay sao? Lúc ấy phải bôi lên bốn chữ “Thần thánh kính yêu”. Chẳng lẽ hắn không gọi bạn là “đồng chí” hay sao? Tóm lại, ngoài mặt phải bôi thêm một lớp gì, để người học tâm thần tỉnh táo, tùy thời ứng xử, nhưng không bỏ rơi tôn chỉ mục đích mà phụng sự hai chữ Hậu Hắc, có chí thì nên

Phần Hai

HẬU HẮC TÙNG THOẠI


SỬ QUAN VỀ HẬU HẮC, TRIẾT LÝ HẬU HẮC,
ỨNG DỤNG HẬU HẮC HỌC, LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN HẬU HẮC HỌC


Tác giả phát minh “Hậu Hắc Học” vào những năm cuối thời Mãn Thanh, chú yếu nói về những anh hùng hào kiệt trong 24 bộ sử, những bí quyết thành công của họ, không ngoài 4 chữ: “Mặt dày, tâm đen”, nêu ra những sự thật của lịch sử để dẫn chứng. Năm Dân Quốc nguyên niên đưa đăng tải trong Công luận nhật báo ở thành đô. Bài này viết ra để đùa vui, nào ngờ từ đó về sau, ba chữ “Hậu Hắc Học” lại tràn ngập ở Tứ Xuyên, trở thành một danh từ phổ thông, tôi cũng không hiểu ra sao. Mỗi khi gặp những người bạn không quen biết, người khác giới thiệu, nói rằng: “Đây là ông Lý, người phát minh ra “Hậu Hắc Học””. Thế là ba chữ Lý Tôn Ngô và ba chữ “Hậu Hắc Học” được hợp thành một, giống như Thích Ca Mâu Ni hợp làm một với Phật giáo, Khổng Tử hợp làm một với Nho giáo vậy
Có một lần ngồi trong bàn làm việc, một ông chỉ vào tôi và nói với mọi người: “Ông này họ Lý, tên Tôn Ngô, là người tiên tiến của “Hậu Hắc Học””.Tôi vội vàng lên tiếng thanh minh: “Ông nói sai rồi, tôi là tổ sư của “Hậu Hắc Học”, các ông mới là những người tiên tiến của “Hậu Hắc Học”. vị trí của tôi ngang hàng với Thích Ca Mâu Ni trong Phật giáo, Khổng Tử trong Nho giáo”. Đương nhiên tôi xưng là Tổ sư , các bạn tự liệt mình vào những người đứng bên cạnh, ngang hàng với 12 người đứng bên cạnh của Thích Ca Mâu Ni, Tứ khoa thập triết (là những học trò giỏi của Khổng Tử được chia thành 4 khoa: Đức hạnh có Nhan Uyên, Mẫn Tử Khiên, Nhiễm Bá Ngưu, Trọng Cung; Khoa chính sự có Trọng Hữu, Quý Lộ; Khoa văn học có Tử Du, Tử Hạ; Khoa ngôn ngữ có Tử Cống, Tể Ngả và Thập triết: trong số môn đồ của Khổng Tử có 10 nhà hiền triết:Nhan Uyên, Mẫn Tử Khiên, Nhiễm Bá Ngưu, Trọng Cung, Trọng Hữu, Quý Lộ, Tử Du, Tử Hạ, Tử Cống, Tể Ngả) của Khổng Tử, đối với những người bình thường khác, đương nhiên được xưng là những phần tử tiên tiến.
“Hậu Hắc Học” là bí quyết từ thiên cổ không truyền lại, tôi đã khám phá được ra, có thể gọi là một công lớn như ở thời Ngu Công vậy. Mỗi khi đến một nơi nào đều có người mời tôi nói về “Hậu Hắc Học”, đời tôi ôm ấp cái học thuyết không được truyền lại, không dám nhận là của riêng, dành phải chịu nhẫn nại học tập nghiền ngẫm rồi theo đó viết ra, cho nên đặt tiêu đề là Hậu Hắc Tùng Thoại
Có người phản bác tôi rằng: “Từ xưa đến nay đâu có hiếm những kẻ mặt dày mặt dạn, tâm địa đen tối! đó là việc cực kỳ phổ biến, sao ông lại dám mạo xưng là người phát minh?” Tôi nói: “Cái gọi là  nhà phát minh cũng giống như một kỹ sư khoáng sản tìm những khoáng vật như than đá, sắt thép. Đâu có phải là kỹ sư khoáng vật bỗng nhiên lấy được những khoáng chất chôn sâu dưới đất, trong đất vốn vốn đã có than đá, sắt thép, kỹ sư khoáng sản đào bỏ đi lớp đất đá trên mặt đất, các khoáng vật than đá, sắt thép tự nhiên xuất hiện, như thế được gọi là phát minh rồi. Hậu Hắc là cái vốn có của con người, nhưng bị che lấp bởi Tứ Thư, Ngũ Kinh, Tong nho ngữ lục và Cảm ứng thiên (những luận văn viết về sự cảm ứng của trời đất), Âm chất văn (những luận văn viết về sự phúc đức mà chỉ có quỷ thần mới biết được), Giác tể chân kinh (một loại kinh nhà phật giác ngộ người đời). Tôi quét sạch bụi, khiến Hậu Hắc đều hiện ra cả, có thể gọi là nhà phát minh vậy
Niu – tơn phát minh ra sức hút, sức hút này cũng không phải Niu – tơn mang lại, từ khi khai thiên lập địa , lòng đất đã có sức hút, đã trải qua hàng triệu năm mà không ai biết, đến khi Niu – tơn ra đời mới phát hiện ra ra được. Học vấn về môn học Hậu Hắc này, từ thời xưa đến nay chưa có ai nghiên cứu. Đã không làm thì không viết được, học tập mà không mài rũa cho rõ, cho đến khi Lý Tôn Ngô ra đời, mới phát hiện ra được nó. Niu – tơn có thể là nhà phát minh sức hút, Lý Tôn Ngô đương nhiên có thể gọi là nhà phát minh “Hậu Hắc Học”
Có người nói với tôi: “Nước ta năm này qua năm khác không ngừng rối loạn, chính là do kẻ này người khác thực hành hậu hắc học nên mới gây ra sự đổ bể như vậy, nay lại bị nước láng giềng hùng mạnh chèn ép, chính vì thế mà nạn vong quốc đang ở trước mắt, ông còn đề sướng ra “Hậu Hắc Học” làm gì?”. Tôi nói: “Chính vị họa mất nước đang ở trước mắt nên cần đề xướng “Hậu Hắc Học”. Có nghiên cứu kỹ môn học này mới có thể bình định được tình hình rối loạn trong nước, mới có thể đối ngoại được, Hậu Hắc là thứ kỹ thuật để giải quyết công việc, giống như dùng quyền thuật đánh người vậy. Các ông đều đã biết: Phàm những nhà thuật quyền đều phải đóng cửa luyện tập mấy năm, sau đó mới có thể đấm đá với người khác được. Từ Tân Hợi đến nay đã có biết bao kẻ nổi lên làm loạn đều là những đệ tử môn học này của tôi cả, còn có cả đệ tử của các trường tư thục nữa, thực tập ngay ở thực địa. Các sư huynh sư đệ của họ, cọ xát đấm dá lẫn nhau, đến nay đã 24 năm rồi, coi như là đã tập luyện xong. Họ mở cửa xong ra, đấm đá với người khác, có thể gọi là: “Lấy mình chế ngự kẻ địch, kẻ địch nào không lui; lấy cái đó để lập công, trận đánh nào mà không thắng”. Tôi dựa vào kiến giải này, đặc biệt nêu ra một khẩu hiệu: “Hậu Hắc cứu quốc”. Xin hỏi những người đang sống, muốn chống lại các nước mạnh có cách nào khác ngoài “Hậu Hắc Học”? cho nên không thể không viết “Hậu Hắc Học” vậy”.
Chống lại các nước mạnh phải có lực lượng, những người trong nước đều nghiên cứu sâu sắc “Hậu Hắc Học”, mới có thể coi là có năng lực. Ví dụ, bắn tên thì tên phải bắn ra thật trúng. Xưa kia người ta ra khỏi cửa thì bà con và anh em bắn lẫn nhau, anh bắn tôi và tôi bắn anh. Còn ngày nay lấy các nước mạnh làm mục tiêu để bắn mũi tên nào cũng hướng vào bia ấy mà bắn, sở dĩ tôi gọi “Hậu Hắc cứu quốc” là như thế đấy
Người xưa đã từng làm “Hậu Hắc cứu quốc”, như Việt vương Câu Tiễn. Sau khi ở Cối kê thất bại, Câu Tiễn tự mình xin làm bầy tôi cho Ngô vương, đưa vợ vào làm tỳ thiếp trong cung Ngô vương, đó  là bí quyết của “Hậu”. Về sau cử binh đánh Ngô, Phù Sai sai người đến khóc lóc xin tha, cam chịu xin làm bầy tôi, đưa vợ ra xin làm tỳ thiếp, Câu Tiễn không buông tha, không biết Phù Sai không được, đó là bí quyết của “Hắc” vậy. Do đó thấy rằng: “Hậu Hắc cứu quốc” trình tự của nó trước hết dùng “Hậu”, tiếp đó dùng “Hắc”. Việc làm của Câu Tiễn đáng để chúng ta kham khảo
Hạng Vũ là một anh hùng bạt sơn cái thế, nguyên nhân thất bại của ông ta được Hàn Tín nói bằng hai câu: “Dũng khí của kẻ thất phu, lòng nhân ái của đàn bà”, đã đoán định cả rồi. Dũng khí của kẻ thất phu là không chịu nổi nóng giận, căn bệnh đó không phải là “Hậu”, lòng nhân từ của đàn bà, trong lòng không có gì là bất nhân, căn bệnh ấy không phải là “Hắc”. Cho nên tôi giảng giải “Hậu Hắc Học”, cũng lấy cái không “Hậu” không “Hắc”, không phải tất cả đều không Hậu Hắc, nếu dùng ngược lại Hậu Hắc, đáng “Hậu” mà lại dùng “Hắc”, đáng “Hắc” mà dùng “Hậu” thì sẽ thất bại thôi. Xin lấy ví dụ ở Triều đại nhà Minh, không tự lượng sức mình, đã khinh thường đem quân đánh Mãn Châu, tức là dùng cái dũng khí của kẻ thất phu. Không biết giặc dã mãn, khó thuần phục, quyết chí chống lại, tức là lòng nhân ái của đàn bà. Do đó triều đại nhà Minh phải mất nước, căn bệnh này là phản lại hai chữ Hậu Hắc. Những người có chí cứu quốc không thể không đem tâm huyết nghiên cứu kỹ lưỡng sâu sắc.
Hôm qua tôi trở về nơi ở, thấy một người bạn quen ngồi trong phòng khách, vừa mới gặp đã nói ngay rằng: “Tại sao anh lại đăng “Hậu Hắc Học” lên báo? Lòng người bây giờ hiểm độc, dối trá, đã đại loạn rồi, đáng ra phải bàn về đạo đức, để mong cứu vãn, anh lại ném ra nghị luận kỳ quặc ấy, tránh sao không khiến lòng người ngày càng hư hỏng?”. Tôi nói: “Anh quá lo đấy”, tôi kể hết tư tưởng, đầy đủ ngọn ngành cho bạn nghe, nghe đến canh hai, ông bạn lại thấy hứng thú, nói rằng: “Nói như vậy thì anh quả đã là tín đồ của Khổng Tử, “Hậu Hắc Học” là liều thuốc tuyệt diệu cứu chữa lòng người trên đời này. Từ nay về sau, tôi xin làm một tín đồ dưới trướng cảu Giáo chủ Hậu Hắc
Tôi sáng tác “Hậu Hắc Học”, toàn chỉ dùng theo thư pháp của xuân thu, không cần phân biệt: Thiện, ác; dựa vào sự việc ở trong sách, tự sẽ thấy thiện ác. Với môn Hậu Hắc này, dùng với ý đồ tư lợi một chút thôi, là hành vi rất bỉ ổi, nhưng nếu lại là ý đồ vì lợi ích chung cho chung dân, là đạo đức cao thượng chưa từng có, cho nên những kẻ không hiểu thư pháp Xuân Thu, thì không thể đọc Hậu Hắc được.
Năm Dân Quốc thứ sáu, nhà xuất bản Công báo Thành Đô in “Hậu Hắc Học” thành một cuốn sách. Nghi Tân Đường Chu Phong đề tựa, Trung Giang Tạ Thụ Thanh viết lời bạt. Thụ Thanh viết rằng: “Hậu Hắc Học” như là một con dao sắc, dùng để trừ phản nghịch là thiện, dùng để hại lương dân là ác. Thiện và ác có quan hệ gì đên con dao. Nếu dùng Hậu Hắc làm việc thiện sẽ là người thiện, nếu dùng Hậu Hắc để làm việc ác sẽ là kẻ ác” cách nói ấy của Thụ Thanh là rất đúng
Lời của Chu Phong nói rằng: “Cuốn sách này là của Tôn Ngô không quy tụ hết cả một bầy đại gian đại trá từ thiên cổ đến nay, mà định tội trạng của từng tên, ta đọc thuộc sách này thì sẽ nhìn rõ những kẻ Hậu Hắc, đều như thế cả, ngõ hầu ứng phó với đời được, không đến nỗi ngu dại như đã xẩy ra bao đời nay”. Câu nói này của Chu Phong có lý của nó, không được đầy đủ như Thụ Thanh nói
Trang tử nói: “Không quy vào một mối, hoặc phong bế lại, hoặc không tránh khỏi giải tỏa”. Ô hô! Phải chăng Trang Tử là người khởi đầu nói Hậu Hắc vậy thay. Đem ngôi vua nhường cho người khác, Thuấn làm như vậy thì thành thánh nhân, Tào Thừa, Lưu Dụ làm thế thì thành nghịch thần. Tôn Ngô nói: “Việc làm của Thuấn, Ngu nếu gọi là Hậu Hắc, liệu có thật thế không, còn quá nhiều nghi hoặc. Chu Phong cầm sách Trang Tử không rời tay nhưng chưa đạt tới “Hậu Hắc Học”, tiếc thay, cuối đời Chu Phong từ chỗ sáng láng đến cùng quẫn, chỉ nói về học thức, trở về Thành Đô chết vì bệnh nghèo. Hạ Phủ đưa câu đối viếng có nói: “Có tiền mua sách, không tiền mua gạo”. Giá như chỉ dùng miền mua một bộ “Hậu Hắc Học”, tiền còn là thì mua gạo, thì đến nay vẫn sinh tồn được, thế nhưng Chu Phong vẫn chưa tỉnh ngộ, buồn thay!buồn thay!

Tôi viết “Hậu Hắc Học” có hai ý:
A. Như Chu Phong nói: “….Thâu tóm hết cả một bầy đại gian đại trá, định nghĩa tội ác của từng tên”. “Hậu Hắc Học” được công bố năm Dân Quốc thứ nhất và thêm tạp lục truyện còn có: Sáu chữ chân ngôn để cầu làm quan, Sáu chữ chân ngôn của người làm quan và hai cách làm việc khéo, tất cả đều thuộc loại A
B. Như Thụ Thanh nói: “Dùng Hậu Hắc để làm việc thiện”, những chuyện được nói ở Hậu Hắc tùng thoại là thứ loại B”
Các độc giả nếu nghiên cứu kỹ học vấn của tôi, hễ sau nếu có người làm theo “Hậu Hắc Học”, các vị chỉ nhắm mắt là rõ, có thể nói thẳng rằng: “ Bạn là học sinh lớp A của Lý Tôn Ngô, tôi và anh cùng tốt nghiệp một lớp, anh hãy bớt dở cái trò đó ra”. Do đó, sự tương kiến thành thực giữa bạn học với bạn học, thì từ nay thiên hạ thái bình vậy, đó là sự thành công của “Hậu Hắc Học”. Có người bảo, Lão Tử nói: “Không thể nói cho người khác hết lợi khí của một nước”. Ông mang “Hậu Hắc Học” nói công khai, vạn nhất mà bọn Hán gian của Trung Quốc dịch sang các tiếng nước ngoài như Anh, Pháp, Đức , Nga, Nhật truyền lan cho tất cả cả các giới, các nước mạnh nắm được bí quyết này, lại dùng các phương pháp khoa học để chỉnh lý, sẽ tác động phản ngược lại với ta, khác nào thuốc nổ do ta phát minh , cải tiến thêm một chút lại bắn vào ta, thề thì được gì cơ chứ? Tôi nói: “Chỉ sợ người ta không dịch, càng dịch được nhiều càng tốt, Tống Triều đã dùng Tư Mã Quang làm Tể tướng, nhiều người nước Liêu nghe tin đã khuyên răn các quan ở biên giới rằng:”Trung Quốc dùng Ông Tư Mã thì ta chớ sinh sự”. Các nước mạnh nghe nói Trung Quốc đã xuất hiện giáo chủ Hậu Hắc lại không sợ mất mất sao?” Khổng Tử nói: “Lời thì trung tín, làm thì thành thực, kính trọng, dù cho các nước lân bang ngang ngược thì vẫn ta vẫn có thể làm được”, chính sách đối ngoại của nước ta xưa nay vẫn xây dựng trên chữ “Thành”. Nay có thể bảo thẳng thắn rõ ràng cho họ biết: “Nước ta hiện hiện đang lập những trường “Hậu Hắc Học” ở khắp nơi, thần vị cũng lễ trong trường là: “Việt Vương, Câu Tiễn – người đã trở thành đại thánh tiên sư”. Giáo chủ Hậu Hắc đã mở trường dạy hàm thụ, mỗi ngày đều có bài giảng công bố trên báo, xác định kế hoạch làm chìm đắm nước Ngô trong 10 năm. Trong 10 năm ấy, họ đòi điều kiện gì, nước ta sẽ đáp ứng điều kiện đớ, chờ sau 10 năm coi như tính xong món nợ là được”. Miệng chúng ta nói như vậy, trong thực tế sẽ làm như thế, dứt khoát không thèm lựa bịp họ. Nhưng phải cảnh cáo các vị Hán gian phiên dịch khi dịch “Hậu Hắc Học” phải phụ chú thêm một đoạn: “Lúc ban đầu thân phận Câu Tiễn chỉ là bầy tôi đối với Ngô Vương, còn vợ là tỳ thiếp, Câu Tiễn không nghe, không giết Ngô Vương không được”.Họ còn được thêm những món tiền lãi lớn gấp mấy lần. Đó là những điều dạy bảo của các vị tiên sư xưa kia để lại cho chúng ta, vậy xin mời các nước mạnh, ngoài số tiền nộp ban đầu, hãy chuẩn bị thêm số tiền lãi nữa là được”. Xưa kiaVương Đức Dụng phòng giữ biên cương, Khiết Đan (tộc người Đông Hồ, một vùng ở đông bắc Trung Quốc ngày nay, thời ngũ đại nhà Tấn đổi quốc hiệu là Liêu, thời nhà Tống bị nước Kim tiêu diệt) sai người đến trinh sát, các tướng sỹ đề nghị bắt, Đức Dụng nói “Không cần”. Ngày mai tổ chức cuộc duyệt binh lớn, thật ra là đem thực tình quân ngũ cho người ta thấy, trinh sát trở về báo cáo. Khiết đan lập tức sai người đến nghị hòa. Giả dụ người nước ngoài biết trên dưới chính phủ tới người dân nước ta điều nhất trí nghiên cứu “Hậu Hắc Học”, tự lượng sức mình không thể địch nỗi, vì thế dã tâm của chúng phải rụt lại thôi. Mười năm sau không xẩy ra giặc dã chém giết lớn, thế là “Hậu Hắc Học” tạo phúc cho nhân loại, hỏi có gì đáng ngại
Sự phiên dịch của các ngài Hán gian cũng coi là công đấy. Người ta lớn tiếng bàn về đạo đức, song nào có hiểu hết được đâu. Chuyện xưa nói: “Dân nhìn lửa bốc mạnh thì sợ, nên ít có người chết. Nước lặng yếu, dân nhờn hay đùa nghịch, nên nhiều người chết”. Các ngài Hậu Hắc hãy cùng tôi thu mình lại như sự hóa thân của Phật như lai
Ông bạn Lôi Dân Tâm đã sáng tạo một thứ học thuyết vô cùng tinh túy, nói rằng: “Những việc trên đời được chia làm hai loại, một loại làm được mà không nói được, một loại nói được mà không làm được. Ví dụ, việc vợ chồng cùng sống chung phòng, dù có làm gì, nếu đem chuyện ấy ra nói cho mọi người biết sẽ thành trò cười, đó là làm được mà không nói được. Lại như hai người bạn lấy những lời đùa nghịch chơi trò đóng kịch chằng hạn như đóng vai người mẹ và các chị em chửi mắng, ai nghe thấy sẽ không trách, nếu thực hiện trong thực tế đúng như vậy, thì người ta quở trách nhiều đấy, có  thể là nói được mà không làm được. Những người của giới chính trị, giới học thuật đều không thể không lưu ý học thuyết này của Dân Tâm, chư vị độc giả không thể không biết đến “Hậu Hắc Học” là thứ làm được mà không nói được”
Câu “Làm được mà không nói được” được cước chú trong sách Luận ngữ “Có thể nói cho dân làm, không nói cho dân biết”; Câu “nói được mà không làm được” đã được Mạnh Tử cước chú ở chương Tỉnh Điền và Chu Lễ. Giả dụ nay Vương Mãn, Vương An Thạch, kể cả Dân Tâm được đưa lên hàng cố vấn cao cấp, chắc không thể để thiên hạ gây nên những chuyện tồi tệ như thế
Ngày 18 tháng 10 năm Tân Hợi xảy ra cuộc binh biến ở Thành Đô, trật tự toàn thành phố vô cùng rối loạn, Dương Tân Hữu ra đảm nhiệm tổng đốc tuần cảnh bắt những người gây rối loạn để trị an, xử phạt ngay tại chỗ, rồi ra bản cáo thị, mô phỏng giọng văn yết thị bảy tội chém của Trương Hiến Trung, toàn là những chữ chém, chém, chém, rất được hoan nghênh của nhiều người. Già gái trai khắp thành phố, hễ đề cập đến tên của tổng đều hết lời ca tụng. Về sau trật tự ổn định một chút, ông ta đã có một bài tuyên ngôn rằng: “Từ nay về sau bắt đầu thực hiện chế độ chuyên chế”. Vì  thế lời đề dị nghị sôi lên sùng sục, trên báo chí chỉ trích ông ta, hội nghị của tỉnh cũng lên án ông ta rằng: “Này là thời đại dân chủ, làm sao có thể dùng thủ đoạn chuyên chế”. Những thủ đoạn trước đó của Tân Hữu, thuần túy thực hiện chế độ chuyên chế một cách ngang nhiên, về sau công khai nói thẳng đổi thành chế độ chuyên chế với Tân Hợi là tiến hóa, chỉ vì nói rõ ra hai chữ chuyên chế cho nên phải chịu cái vạ dị nghị. Dân tâm nói: “Việc trong thiên hạ, có việc làm được mà nói thì không được”. Việc của Tân Hữu là một dẫn chứng rất hay đã được Khổng Tử chú giải như những việc kiểu Tân Hữu: “Có thể nói dân làm, không thể nói cho dân biết
Tôi định ra một lệ chung: “Dùng “Hậu Hắc Học” để mưu đồ riêng tư lợi riêng mình là hành động thấp hèn, bỉ ổi; dùng “Hậu Hắc Học” để mưu đồ lợi ích chung của chúng dân là đạo đức cao thượng không gì sánh được”. Tân Hữu chuyên chế dã man ngang ngược, tam can hắn đen tối, mà người ta không ngớt lời ca tụng, nguyên do là vì mưu lợi chung
Câu nói Hậu Hắc là cứu quốc, làm cũng làm được, nói cũng nói được, chẳng qua những người học thức quá kém, thì không thể nói với họ được mà thôi. Lần này tôi công khai giảng giải “Hậu Hắc Học”, tức là biến nó trở thành khoa học.
Hồ Tâm Dực đã từng nói: “Nếu có lợi cho nước thì tôi sẽ làm tất cả cho dù là những việc đen tối vô sỉ chăng nữa”. Tương truyền Lâm Dực khi làm tuần phủ ở Hồ Bắc, Một viên quan làm tổng đốc phu nhân, Hiên Đài đến chúc thọ, mang theo cả lời chúc, sau đó mới biết là ngày sinh nhật của phu nhân, lại mang lời chúc cất đi rồi quay về. Các quan khách khác cũng làm theo đó bỏ đi. Một lúc sau Lâm Dực đến, có người bảo cho ông biết, ông nghe rõ, dơ ngón tay cái lên nói rằng: “Phiên Đài giỏi! Phiên Đài giỏi”. Nói xong, rút tờ lời chúc mừng cao lên với bộ mặt rạng rỡ đi chúc thọ. Các quan nghe nói tuần phủ đã đến, lại tấp nập quay lại. Ngày hôm sau, vợ chồng tổng đốc quỳ lạy mẹ Hồ Lâm Dực xin làm con gái nuôi, Lâm Dực là anh trai. Từ đó về sau trong những việc về quân sự phải cùng hội bàn với tổng đốc, đều mời cả em gái nuôi tới dự. Viên quan văn ấy hơi trù trừ, nghi ngờ. Vợ ông ta nói nhỏ bên tai rằng: “Việc của ông sánh sao được với ông anh họ Hồ của chúng ta, ông cứ làm tho lời anh ấy là được”. Vì thế Lâm Dực làm việc vô cùng thuận lợi. Sự thân thiện của viên quan họ Hồ có quan hệ cực lớn với thời trung hưng Mãn Thanh. Lâm Dực làm việc ấy có thể coi là mặt dày mặt dạn vậy, dân chúng không nói ông ta là đê tiện, ngược lại nêu ra là một hành vi đẹp nữa, tại sao thế? Đó là tấm lòng vì nước
Nghiêm Thế Phan là tên quan đại gian của triều đình nhà Minh. Điều đó chúng dân đều biết, về sau vua bắt hắn ném vào trong ngục. Các quan cùng họp lại với nhau viết sớ kể tội trạng của hắn như đã giết Tiêu Sơn Thẩm, đã can gián vua, rồi đưa bản thảo đệ trình lên tể tướng Tử Giai xem. Tử Giai xem rồi nói: “Bản tâu trình này đưa lên thì Hoàng thượng lập tức tha hắn ngay, đó là vì cớ làm sao? Thế Phan giết những người ấy đều là những cách làm dựa theo ý kiến trên, khiến Hoàng thượng phải tự ra lệnh giết họ. Nếu bản tấu trình này đưa lên, Hoàng thượng có thể sẽ nói: “Rõ ràng là ý trẫm giết những người ấy, làm sao lại đổ tội cho Thế Phan được”. Làm sao hắn lại không được tha? Mọi người hỏi làm như thế nào? Tử giai nói: “Hoàng thượng rất căm ghét giặc Ngụy, nói hắn tư thông với giặc Ngụy là được”. Tử Giai đóng cửa sửa lại bản tấu trình rồi đệ lên. Thế Phan ở trong ngục nghe ngóng được bản tấu trình của các quan, nói với người thân tín: “Các ông bất tất phải lo lắng, không mấy ngày nữa ta sẽ ra khỏi đây”. Sau đó có lệnh phát ra, nói hắn tư thông với giặc Ngụy, hắn thét kinh kêu lên: “Hết rồi! Hết rồi”. Quả nhiên hắn đã bị giết. Thế Phan có tội cực lớn, cực ác, đáng ra phải giết, nếu không kể tội tư thông với giặc Ngụy, làm sao có thể bắt hắn chịu tội chết. Từ Giai đã lập ra kế độc ác này, tấm lòng của ông không phải là đen tối, mà người ta sau này nói ông là người mưu trí, không ai nói tới mưu độc của ông, vì sao vậy? vì trừ hại cho quốc gia.
Lý Thứ Thanh là môn sinh rất được vừa lòng của Tăng Quốc Phiên, Quốc Phiên bị bại trận ở Tinh Cảng Kỳ Môn. Thứ Thanh là người chung hoạn nạn với ông, về sau Thứ Thanh thua trận mặt đất, Quốc phiên nghĩ đến kế của Khổng Minh chém Mã Tốc, gọi tướng sỹ trong phủ căn dặn để nghiêm trị Thứ Thanh, tướng sỹ không đồng tình, lại gọi Lý Hồng Chương dặn dò, Lý Hồng Chương nói: “Thấy muốn trị Thứ Thanh, môn sinh này xin đi cứu”; Quốc phiên nói rằng: “Ngươi phải đi, rất có thể ta tự tâu lên cũng được!”. Hôm sau cho người mang bốn trăm lạng bạc đến gặp Hồng Chương “Mời Lý đại nhân thu nhận”. Hồng Chương ở hàng tướng sỹ trong trướng phủ, có công tích nhiều năm, vì việc ấy bị đuổi đi. Sớ tâu lên nhà vua, Thứ Thanh bị xử tội nặng, Hồng Chương ra đi không có việc gì làm, đành phải nhờ người nói giúp, lại được trở về trướng phủ. Thủ đoạn dùng ở đây của Quốc phiên rất cay nghiệt, nên không tránh khỏi chữ Hắc, thế nhưng Thứ Thanh lại vẫn cảm ơn tri ngộ, Quốc Phiên chết, đã làm thơ để khóc, vô cùng thành khẩn. Cuối đời của Hồng Chương được phong tước đưa lên hàng tướng, nói đến Quốc Phiên thì cảm ơn mãi không ngớt. Vì cớ gì vậy? Chỉ vì không có chút tư tâm
Trên đây kể lại ba việc của Hồ, Từ, Tăng. Nếu dùng vào mưu đồ tư lợi, thì tránh sao khỏi những việc làm thô bỉ? còn nếu chuyển sang mưu đồ vì lợi ích chúng sẽ trở thành đạo đức cao thượng nhất. Quan sát những sự việc như vậy sẽ tìm ra được bí quyết của những người đương sự, cũng có thể tìm ra sách lược cứu quốc được nữa. Hiện nay thiên hạ đại loạn, nói chung người ta nói trong tương lai muốn thu phục được đại cục, nhất định phải là những người như Tăng Quốc Phiên, Hồ Lâm Dực, song phải học Tăng, Hồ thì bắt tay từ đâu được? Chẳng lẽ mang toàn tập của Tăng, Hồ đọc từng chữ, học từng câu hay sao? Cũng không cần phải làm điều đó, có một cách giản đơn nhất: Mang hết tinh thần tập trung vào việc chống lại các nước mạnh, mắt khỏi nhìn gì khác, tai khỏi nghe gì khác, chỉ cần nắm  thật vững hai chữ Hậu Hắc, cứ ra tay làm tới, chắc chắn có hiệu quả, chắc cũng được như Tăng, Hồ không kém. Nếu ngại hai chữ Hậu Hắc không lọt tai nghe, thì bề ngoài bạn đổi hai chữ khác dễ nghe hơn. Song chớ học theo Dương Tân Hữu nói rõ hai chữ chuyên chế. Nếu bạn can đảm hãy học Hồ Tâm Dực, nói toạc ra rằng: “Tôi là kẻ vô sỉ”. Các nước mạnh thấy thế cũng chẳng sao cả! thế mới gọi là “Hậu Hắc cứu quốc
Tôi đã nghiên cứu nhiều năm lịch sử ngoại giao thế giới, cuối cùng đã phát hiện những bí quyết ngoại giao của các nước mạnh. Các phương thức của họ không làm hai loại: Một là kẻ ăn cướp, một nữa là đĩ điếm; khi hoành hành không dựa vào lý được thì dùng vũ khí để cướp đoạt, tức là dùng súng ống gây hấn cướp đoạt tức là ngoại giao kiểu ăn cướp; khi thì dùng những lời nói đường mật, nhằm đưa đẩy bằng những lời ca tâm tình, giống như bọn đĩ điếm liếc mắt đưa tình với khách, hẹn được liên minh với nhau, nếu chưa thấy hiệu quả, lại dùng những lời thề non hẹn biển của bọn đĩ điếm, thế là ngoại giao kiểu đĩ điếm
Có người hỏi Nhật Bản dùng kiểu gì lập quốc? xin đáp rằng: “Lập quốc bằng Hậu Hắc”. Bộ mặt đĩ điếm rất dày, tâm can cướp đoạt rất đen. Đại để những hành động quân phiệt của Nhật Bản là kiểu ăn cướp, ngôn ngữ của các quan chức ngoại giao là kiểu đĩ điếm; sau kiểu đĩ điếm, tiếp đó là kiểu ăn cướp. Cả hai thứ ấy có tác dụng tương hỗ hoàn toàn, và nước ta đã thiệt thòi không ít. Bộ mặt đĩ điếm rất dày, nếu bóc vỏ lời thề, thì thấy được Hắc trong Hậu. Cái dã tâm ăn cướp đâu có thèm biết đến những lời chửi mắng nguyền rủa, tức là Hắc có Hậu. Một mặt dùng vũ lực cướp đoạt đất đai của nước ta, một mặt lên giọng nói về sự thân thiệp Trung – Nhật, rõ là đĩ điếm và ăn cướp hợp lại làm một.
Có người hỏi: “Nước ta lấy gì để cứu quốc”. Xin trả lời “Hậu Hắc cứu quốc”. Nhật Bản dùng chữ “Hậu” đến đây, ta dùng chữ “Hắc” đáp lại. Đĩ điếm tốc ngược váy áo, đẩy cửa xông vào, nhưng lại đem quấn hết lên đầu, không sao ra được, tống ra khỏi cửa, thế gọi là dùng chữ “Hắc” phá chữ “Hậu”. Nhật Bản hoàng hành không đếm xỉa đến lý, dùng vũ lực áp bức, chúng ta dùng cánh cửa Trương Lương để đối phó với Nhật Bản, Trương Lương đọc sách của Dĩ Thượng, có biết bao tác dụng, không ngoài việc duy nhất cho ông biết rõ về mặt dày mặt dạn mà thôi. Cuộc chiến tranh Hán – Sở, Cao Tổ dùng những kế sách của Trương Lương, đã bị chiến bại ở Huy Thủy, chính đốn binh mã, lại đến, Vinh Dương đã bị thất bại nhục nhã, rồi vẫn chỉnh đốn binh mã nữa, thế mà bức được Hạng Vũ ở Ô Giang. Chúng ta dùng cách đó đối phó với Nhật Bản, tức là dùng chữ “Hậu” phá chữ “Hắc” vậy. Hậu Hắc và cứu quốc được kết hợp làm một, là hồn của Trung Quốc vậy
Sử ký chép: Hạng Vũ nói với Hán vương rằng: “Thiên hạ lộn xộn mấy năm, nhưng chỉ có ông và tôi đã được người ta nói tới, tôi xin cùng Hán vương quyết một trận thư hùng”. Hán vương cười tạ trả lời rằng: “Tôi thà đấu trí chứ không đấu lực”. Hai chữ “cười tạ” không phải là “Hậu” thì là gì nữa? về sau cắt đất Hồng Câu để giảng hòa giữa Hán và sở. Hạng Vũ đã đem Lã Hậu, Thái Công trả lại, dẫn quân quay về phía đông. Hán vương bỗng nhiên vứt bỏ lời thề, đem đại quân đuổi theo sau Hạng Vũ, bức tử Hạng Vũ ở Ô Giang, không phải là “Hắc” thì còn là gì? Cho nên người dùng “Hậu Hắc cứu quốc” thì điều duy nhất là phải có những phương pháp khéo, đã có những gương trước kia như Việt Vương Câu Tiễn, lại như Lưu Bang nữa rồi
Có người hỏi tôi rằng: “Hậu Hắc Học” của ông, tôi mang ra thực hành, đâu đâu cũng thất bại cả?”, tôi hỏi lại: “Ông đã xem những chuyện Hậu Hắc tùng thoại của tôi chưa?”, đáp: “Chưa”, tôi hỏi thêm: “Riêng cái bản “Hậu Hắc Học” đã phát hành, ông đã xem chưa?”, đáp: “Chưa, tôi chỉ nghe người ta nói khi làm việc thì không thể tách rời mặt dày mặt dạn, tâm can đen tối, tôi cứ thế mà làm”. Tôi nói: “Gan của ông quả là to thật mới nghe nói ba chữ “Hậu Hắc Học” lại mang ra thực hành, thì chỉ có thất bại mà thôi, chưa thể nói tới bảo toàn tính mệnh được, còn nói chi đến sự  sáng tạo của ông nữa. Tôi viết “Hậu Hắc Học” là dùng hai chữ Hậu Hắc, đưa cả 24 pho sử vào đấy, gọi là “Sử quan về Hậu Hắc”. Tôi viết “Tâm lý và lực học”, định ra một điều chung là: “Tâm lý thay đổi, thuận theo sự biến đổi của lực học”. Còn như “Triết lý Hậu Hắc là dựa vào triết lý của Hậu Hắc để sửa cho tốt chế độ chính trị, kinh tế, ngoại giao và chế độ học tập… là ứng dụng triết lý của Hậu Hắc”. Còn như ông chưa xem sách lại mang ra thực hành, quả là to gan thật”
“Hậu Hắc Học”, cái môn học này cũng giống như học quyền thuật, muốn học thì phải học thật tinh thông, nếu không thì chẳng thà đừng học, hãy an phận giữ mình, tránh khỏi bị đòn. Nếu chỉ học một vài cách đấm đá, thậm chí dù có đến bái cửa võ sư, có thể học được một vài cách đấm đá, đứng từ xa thấy người ta  học quyền thuật, tự mình múa tay dơ cẳng đánh người, làm sao tránh khỏi người ta đánh bị thương. Ông hãy nghĩ: Hạng Vũ chôn sống hai mươi vạn binh sĩ đầu hàng, cái tam của ông có thể gọi là đen, thế mà trong sách của tôi còn nói ông ta thiếu nghiên cứu chữ “Hắc”, nên ông ta thất bại. Lã Hậu tư thông với Thẩm Thực Cộng, Lưu Bang giả như không biết, người sau có thơ rằng: “Quả nhiên Hán vương rộng lượng, tha thứ cho Bích vương hầu. Ông ta mặt dày mày dạn đến như vậy, thế mà vẫn còn thiếu nghiên cứu chữ “Hậu” nữa đấy. Hàn Tín xin phong vương nước Tề, giả sử không có người bên cạnh chỉ ra một điều, thì hầu như thất bại. “Hậu Hắc Học” tinh thâm nhường ấy, chỉ mới nghe nói danh từ ấy đã vội thực hành, tôi có thể nói càng Hậu Hắc càng thất bại thôi
Có người hỏi: “Phải làm thế nào mới khỏi thất bại?”, tôi nói: “Bạn trước hết phải hiểu triệt để sử quan về Hậu Hắc, triết lý Hậu Hắc và có công phu ứng dụng Hậu Hắc, biết ứng phó mọi việc, mới có thể tránh khỏi thất bại”
Binh pháp viết: “Trước hết phải đứng vững trên mãnh đất không bị đánh bại”, lại viết: “Trước hết phải làm địch không thể thắng, chờ đến lúc có thể thắng được địch”. “Hậu Hắc Học” cũng như vậy đấy
Khổng Tử nói: “Thế trận có kỳ binh (trận đánh được dàn quân với nhiều thay đổi hoặc dùng rất nhiều mưu mẹo) và chính binh (trận đánh được dàn quân điều ở mặt chính, tức là đối diện với nhau), biết thay đổi kỳ và chính, cuối cùng giành thắng lợi”. Xử thế không ngoài Hậu Hắc, biết thay đổi Hậu Hắc mới có thể chiến thắng cuối cùng được. Dùng binh có kỳ và chính, trong kỳ có chính, tỏng chính có kỳ, kỳ chính tương sinh, như là sự tuần hoàn không đầu mối. “Hậu Hắc Học” và 13 thiên của Tôn tử - tên thật là Tôn Vũ, ở thời nhà Chu, đã biên soạn bộ binh thư, được ca ngợi đến ngày nay- vốn là hai mà lại là một, là một mà lại là hai. Không biết binh mà dùng binh, tất làm cho binh bại, nước mất. Không hiểu triết lý Hậu Hắc mà đi thực hành Hậu Hắc, tất dẫn đến nhà cửa nát tan, thân mình cũng mất nốt. Người nghe nói rằng: “Học vấn môn này của ông sâu sắc quá, còn có cách nào đơn giản nữa hay không?”, tôi đáp rằng: “”. Tôi có định ra hai điều chung, bạn hãy thực hành theo đó, không cần nghiên cứu sử quan về Hậu Hắc và triết lý Hậu Hắc, cũng sẽ có thể trở thành anh hùng, thành thánh hiền; nếu muốn đạt được học hàm hàng đầu của một bác học  Hậu Hắc thì không thể không nghiên cứu năm này tháng khác những tác phẩm mà tôi đã viết
Để làm cách ngôn cho mọi người, chúng ta có thể nêu ra một điểm chung: “Dùng 2 để mưu lợi ích chung của chúng dân, thì càng Hậu Hắc nhân cách càng cao thượng”. Nếu nói về sự thành bại, chúng ta có thể nêu ra một điều chung: “Dùng Hậu Hắc để mưu đồ tư lợi riêng cho mình, thì càng Hậu Hắc càng thất bại; dùng Hậu Hắc để mưu lợi ích chung của chúng dân, thì càng Hậu Hắc càng thành công”. Sao lại như thế? Phàm là con người thường đều lấy mình là chủ thể, làm cái tâm của riêng mình, dựa vào cái gốc bẩm sinh, dùng Hậu Hắc để mưu đồ tư lợi của riêng mình, thế tất gây trở ngại đối với tư lợi người khác, cho nên càng Hậu Hắc thì hại người khác càng nhiều; chỉ thấy riêng mình thôi sẽ có hàng ngàn hàng vạn người khác chống lại, ta lấy Hậu Hắc để mưu đồ lợi ích chung tức là điều hành Hậu Hắc thay cho hàng ngàn vạn người mà họ mưu đồ tư lợi, đương nhiên sẽ được hàng ngàn hạng vạn người tán thành và hỗ trợ, đương nhiên sẽ thành công. Ta là một phần tử trong chúng dân, chúng dân có được tư lợi, ta đương nhiên được lợi, không nói đến tư lợi mà tư lợi ở trong cái chung ấy, về sau thành công được. Ví dụ ông Tăng, Hồ dùng Hậu Hắc để mưu lợi ích chung của quốc gia, không hề thấy chút tư lợi nào trong lòng họ cả, về sau thành công được, họ hưởng tiếng tăm rộng lớn, được thưởng rất hậu, chẳng những cái lợi riêng mà họ giành được  còn bé nhỏ sao? Cho nên dùng Hậu Hắc để mưu lợi cho quốc gia, sẽ được báo đáp lại khi thành công, nếu thất bại cũng được danh thơm, tầm nhìn đâu đến nỗi như hạt đậu, không sao thấy nỗi điều ấy được. Xét từ mặt đạo đức: cướp lợi người khác làm của mình, là hành vị trộm cướp nên càng Hậu Hắc thì nhân cách càng bỉ ổi. Dùng Hậu Hắc để mưu lợi ích chung của chúng dân là phải huy sinh bộ mặt của mình, hy sinh tấm lòng của mình, ra tay cứu tế người đời, thấy người ta đói coi như mình đói, thấy người ta bị chìm đắm coi như mình bị chìm đắm, tức là muốn nói “Ta không chui vào địa ngục thì ai chui vào địa ngục”, nên càng Hậu Hắc thì nhân cách càng cao thượng
Có người hỏi: “Thế gian có rất nhiều người dùng Hậu Hắc để mưu đồ tư lợi, vẫn thành công được, là đạo lý gì vậy?”. Tôi nói: “Cái đó gọi là “Thời thế không có anh hùng, khiến những kẻ tiểu tốt đã thành danh”. Những người đối địch với người ấy không ngoài hai loại: Một loại là người vốn mưu lợi ích chung mà không hiểu kỹ thuật Hậu Hắc; Một loại là người mưu lợi mà kỹ thuật Hậu Hắc tương đương với người ấy, thì chắc chắn người ấy thất bại. Thành ngữ đã nói: “Hàng ngàn người đã chỉ trích dù không bệnh tật cũng chết”. Bởi vì đã phương hại tới lợi của hàng ngàn vạn người. Trong hàng ngàn vạn người ấy chỉ có  một người thấy được sở đoản của hắn, sẽ nhè vào đó đánh hắn. Ví dụ trong sử sách ghi: Hạng vương bảo với Hán vương rằng: “Thiên hạ có biết bao người nổi tiếng, nhưng hai người ông và tôi được nổi danh hơn cả”. Trăm họ thời ấy, ai ai cũng mong một trong hai người ấy chết đi, cho nên khi Hạng vương lạc đường, hỏi một lão nông, lão nông lừa gạt nói đi về bên trái, bên trái sẽ bị hãm vào những đầm lầy rộng lớn, đến khi quân Hán đuổi kịp thì bị chết. Nếu là đoàn quân cứu dân khỏi nạn nước sôi lửa bỏng, chắc chắn lão nông ấy không nói dối, không lừa gạt Hạng vương? Chúng ta đề xướng “Hậu Hắc Học” cứu quốc, đó là dùng “Hậu Hắc Học” bạo vệ tư lợi của hàng trăm triệu người, đương nhiên giành được sự tán thành và sự giúp đỡ của hàng trăm triệu người, đương nhiên thành công
Người xưa nói: “Văn vương báo đáp quốc gia”, không phải tôi đã biết hết văn chương, cái mà tôi biết được là Hậu Hắc mà thôi. Từ nay trở về trước, đều lấy Hậu Hắc báo đáp quốc gia. Hậu Hắc kinh nói rằng: “Tôi chẳng phải là người của đạo Hậu Hắc, không dám bày đặt ra trước quốc dân, nên chúng dân không biết lòng yêu nước của tôi”. Bảo tôi không nói về Hậu Hắc khác gì bảo Khổng, Mạnh không nói về nhân nghĩa. Thử hỏi: “Có thể thế được hay không?”, tôi tự hỏi: “Người đời có công sẽ thuộc về người có tấm lòng thay đời hành đạo, phát minh ra “Hậu Hắc Học”, mà chỉ giữ khư khư, chẳng bất nhân lắm sao?” Lý Tôn Ngô nói: “Hậu Hắc Học” của bỉ nhân cũng vậy, ông trời cũng chưa muốn cho Trung Quốc phục hưng, đời này kẻ hèn này đâu dám nói ai, Ngô nay sao lại không nói về Hậu Hắc
Thơ người xưa nói rằng: “Nhát cuốc bổ giữa nắng trưa, mồ hôi thấm ngập đất, nào ai biết cơm trên bàn mỗi hạt đầy những gian khổ”. Chúng dân điều nói cơm ăn ngon, nào mấy ai biết nỗi nhọc nhằn của người làm ruộng; chúng dân điều nói dùng Hậu Hắc thích hợp, nào mấy ai biết nỗi gian truân của người phát minh. Bộ sách “Hậu Hắc Học” của tôi, có thể nói mỗi chữ đều phải chịu gian truân cả
Học vấn của bộ môn này của tôi, tương lai nhất định phải trở thành một chuyên khoa, hoặc có lẽ còn phải thiết lập một trường đại học chuyên ngành để nghiên cứu. Tôi dự định đem những quá trình phát minh hợp lực với những người cùng tôi nghiên cứu rồi mới viết ra, người sau nếu bắt chước được những sách thời Tống, Nguyên, những sách của các Nho gia thời Minh, sẽ soạn thành một bộ “Hậu Hắc Học”, mới tìm được nhiều tài liệu hoặc nếu cùng tôi xây ngôi miếu Hậu Hắc thì những nhân vật này cũng được thụ hưởng
Hoàng Kính Lâm, một người bạn cũ, gặp tôi trên đường phố Thành Đô nói rằng: “Đã nhiều năm rồi tôi nghe nói anh muốn xây ngôi miếu Hậu Hắc, tôi đã đến lễ ở cửa trên 10 năm trước rồi, mong anh viết nên một đoạn, sau này cũng được hưởng lây một chút”. Tôi nói: “Không cần viết nữa, anh xem Lâm Phóng trong sách Luận Ngữ, gặp Khổng Tử chỉ hỏi ba chữ “Lễ chi bản”. Cho đến nay vẫn còn chiễm chệ ngồi trong miếu Khổng Tử ăn thịt lợn nguội đấy. Nếu anh có chí theo Đạo này thì chỉ một lần nói chuyện thế này, cũng đủ thừa sức để cùng hưởng rồi”. Kính Lâm lại nói: “Tôi năm nay đã 62 tuổi rồi, vì kính phục học vấn của anh, nên không ngại đến lễ dưới cửa”. Tôi nói: “Chẳng lẽ tuổi tôi kém anh, sao lại không đủ tư cách làm thầy anh sao? Tôi thu nạp anh đứng bên tường, sẽ là một may mắn lớn cho anh, sau này anh tự chọn biên chép thêm vào, viết mấy chữ “Tiên sinh Lý Tôn Ngô là thầy của ta”, cũng vinh quang hơn nhiều so với “Bản phong tước thời Thanh xưa kia cho một vị đại phu nào đó
Năm trước, La Bá Khang ở cùng huyện gửi thư cho tôi nói rằng: “Nhiều người nói anh thiết giảng “Hậu Hắc Học”, khi tôi gặp, người ta biện bạch rằng anh không “Hậu”, không “Hắc”. Tôi viết thư đáp lại rằng: “Tôi phát minh “Hậu Hắc Học”, những đệ tử ngoan ngoãn của riêng tôi đầy khắp thiên hạ, gọi tôi là “Hậu Hắc Tiên Sinh”, và dùng sách tôi đặt lên bậc trên, tôi thì đặt sách xuống bậc dưới, họ tự giác tôn xưng như thế, so với Văn Thành Công, Văn Chính Công, thì đã vinh quang hơn nhiều rồi. So với xưa này thường lấy làm tự hào, không kể túc hạ (tiếng xưng hô tôn kính người bạn của mình) gặp người ta nói tôi không “Hậu”, quả là tôi làm sao lại hỏi tội túc hạ được. thế mà túc hạ lại vẫn  báo cho tôi điều đó? Ô hô Bá Khang, biết nhau đã bao năm rồi, sao lại cam chịu bỏ đi những điều xưa, hãy giữ gìn đôi chân của túc hạ, khỏi phải dùng đến cây gậy chống”. Những ngày gần đây nhiều người khuyên tôi không cần giảng giải “Hậu Hắc Học” nữa, than ôi! Sự tràn truyền trong thiên hạ hướng theo ý muốn vứt bỏ ấy sao nhiều vậy
Trước kia Tạp lục Hậu Hắc truyện được công bố là ghi lại những cuộc trò chuyện của tôi với chúng dân, những chuyện viết ở lần này là để mở rộng Tạp lục Hậu Hắc truyện, có lẽ người ngoài cuộc chưa đọc hết các loại văn trước đây của tôi, nay đem toàn bộ nội dung, cùng với những cảm nghĩ mới hiện có hỗn hợp lại viết rộng ra hơn. Những chuyện viết thêm lần này là thể tùy bút, nội dung gồm có bốn loại: 1/ Sử quan về Hậu Hắc; 2/ Triết lý Hậu Hắc; 3/ Ứng dụng Hậu Hắc Học; 4/ Lịch sử phát minh Hậu Hắc Học. Tôi chỉ viết theo ý, chưa phân loại mà thôi


Phần Ba
TÔI HOÀI NGHI CÁC THÁNH NHÂN

Những người kiệt xuất được coi là thánh trong thế gian đã được sinh ra rất nhiều từ thời Tam đại về trước, khi ấy sao có thể sinh ra nhiều thánh nhân đến thế. Sau thời tam đại thì đã tuyệt chủng, đâu có sinh ra thêm một thánh nhân nào nữa. Sau thời Tần, Hán không biết bao nghìn, bao trăm vạn người học để trở thành thánh nhân, kết quả chẳng có ai thành thánh nhân được cả, cao nhất thì chẳng qua chỉ đạt tới địa vị hiền nhân mà thôi. Xin hỏi có thể học để trở thành thánh nhân được không? Nếu nói có thể học được, thế thì sau Tần, Hán có biết bao nhiêu người học, ít nhất cũng xuất hiện được một thánh nhân chứ! Nếu học không nổi, tại sao chúng ta lại phải khổ luyện ngày đêm, học sách vở của họ, liều chết mà học?
Trước thời tam đại có các thánh nhân, sau thời tam đại không có thánh nhân, đó là một việc hết sức kỳ quái từ xưa tới nay. Những thánh nhân mà chúng ta thường gọi là Nghiêu, Thuấn  Thang, Chu Văn Vương, Chu Võ Vương, Chu Công, Khổng tử (theo truyền thuyết là thời kỳ trước Tam Đại. Nghiêu chết truyền ngôi cho Thuấn, không phải là con hoặc anh em – có lẽ là chế độ tù trưởng, nhưng con người thời đó chất phác lắm. Ngày thời kỳ nhà Hạ, nhà Thương cũng không nhường ngôi cho con, mà thường là em hoặc em họ. Từ thời nhà Chu mới hình thành dần chế độ phong kiến, Ngu công là một thủ lĩnh một bộ lạc cổ đại, tương truyền có công trị thủy, nhân dân ái mộ. Thành Thang sau Chu Võ Vương, đã khắc mấy chữ: “Nhật Tân” vào một cái kỷ của Võ vương để lại. Nay được coi là một bảo vật quý giá. Chu Văn Vương, Chu Võ Vương trước công nguyên khoảng trên 1000 năm, có công lớn giải thích và sáng tạo hình bát quái của Phục Hy – Phục Hy sáng tạo hình bát quái bao gồm mấy cái vạch, khi Trung Quốc chưa có văn tự- thành kinh sách. Khổng Tử là học giả sống vào thế kỷ 6 và 5 trước công nguyên). Chúng ta thử phân tích về họ một chút, trong đó chỉ có Khổng Tử là người bình dân, những người còn lại đều là những vua có công khai quốc cả, là những thủy tổ các học phái đời sau, đó là lỗ hổng đã hiện ra
Các Chư tử đời Chu, Tần mỗi người định ra một học thuyết, tự cho mình đã tìm ra chân lým tự tin nếu cứ theo họ mà thực hiện lập tức có thể cứu nước, cứu dân nào ngờ người ta lại coi thường, chẳng mấy ai tin theo
Vậy tâm tưởng của họ ra sao? Nhân loại đã thông minh rồi, đều biết họ là những người dựa vào quyền thế. Phàm những lời của những người có quyền thế nói ra thì mọi người nhất định phải nghe theo, quyền thế lớn nhất trong thế gian thuộc về một ông vua, nhất là ông vua khai quốc, các sách ở thời đó chỉ khắc trên những mảnh tre, hiếm người đã có thể đọc được sách, cho nên người sáng tạo một học thuyết mới, đều nói rằng: “Chủ trương của ta, láy từ sách một vị quân vương có công khai quốc nào đó di truyền lại. Cho nên Đạo gia dựa vào Hoàng Đế, Mặc gia dựa vào Đại Ngu, đề xướng việc chia ruộng đất để canh tác dựa vào Thần Nông, việc viết cuốn bản thảo vấn đáp cũng dựa vào Thần Nông, viết sách về y học, binh pháp, đều dựa vào Hoàng Đế. Ngoài ra, trăm nghề khéo léo và các loại phát minh đều không thể không quy công cho các quân vương khai quốc, không thể không quy công cho các quân vương khai quốc. Khổng Tử sống ở  thời đó nên đương nhiên cũng không đi ngược với phép tắc này. Những người được ông ta dựa ngoài Nghiêu, Thuấn, Ngu, Thang, Chu Văn Vương, Chu Võ Vương ra, còn dựa thêm Chu Công là người mở mang ra nước Lỗ nữa, nên ông là người thành công lớn nhất. Các Chư Tử thời Chu, Tần ai nấy cũng đều dùng cách làm đó, nêu ra một vài lời hay đức tốt thêm vào cho các đế vương thời xưa. Thế là các đế vương thời xưa được hưởng thêm nhiều danh thơm. Không một ai trong ấy lại không trở thành tổ sư của một học phái để lại cho đời sau”.
 Các Chư Tử thời Chu, Tần ai cũng tuyên bố học thuyết của họ, tập hợp một số môn đồ giảng dạy, các môn đồ của họ đều nói thầy họ là bậc thánh nhân. Nghĩa gốc của hai chữ thánh nhân thời xưa không phải là cao quý lắm. Theo Trang Tử thì thiên hạ nói rằng: “Trên Thánh nhân còn có những bậc thiên nhân, thần nhân, chí nhân, thánh nhân được liệt vào hàng thứ tư, nghĩa của chữ thánh, chẳng qua là: “Mới nghe họ đã hiểu thấu sự tình, không việc nào không thông hiểu cả”, thế thôi. Thật ra những người thông minh thấu hiểu nhiều sự việc thì có thể gọi là “Thánh” được; nói ví như chữ “Trẫm” thời xưa, ai cũng có thể tự xưng được. Về sau, được thánh hóa, dùng riêng cho vua, không cho phép những người bình thường được mạo xưng chữ “Trẫm”, nó mới trở thành cao quý. Các môn đồ Chư tử thời Chu, Tần đều tôn xưng thầy mình là bậc thánh nhân cũng không là quá đáng. Các môn đồ của Khổng Tử gọi Khổng Tử là thánh nhân, Các môn đồ của Mạnh Tử gọi Mạnh Tử là thánh nhân. Các vị Lão Tử, Trang Tử, Dương Châu và Mặc Địch đương nhiên cũng có người gọi là thánh nhân; đến thời Hán Vũ Đế, quần thần dâng biểu xin xóa bách gia, từ trong số các Chư Tử thời Chu, Tần; chỉ chọn ra Khổng Tử, thừa nhận một mình ông là thánh nhân; danh hiệu thánh nhân đều bị nhất loạt tước bỏ hết. Khổng Tử đã trở thành thánh nhân được ngưỡng mộ. Khi Khổng Tử trở thành thánh nhân thì  Nghiêu, Thuấn, Ngu công, Thành Thang, Chu Văn Vương và Chu Võ Vương mà ông ta vẫn tôn ngưỡng, đương nhiên cũng trở thành thánh nhân cả. Cho nên các thánh nhân của Trung Quốc chỉ có một người bình dân, còn lại đều là các vua chúa có công khai quốc cả
Học thuyết của các Chư tử thời Chu, Tần phải dựa vào các vua chúa thời cổ cũng chỉ là những thứ bất đắc dĩ mà thôi. Có thể lấy một số ví dụ: Thời “Nam Bắc Triều – Triều phương Nam và triều phương Bắc, sau thời kỳ Đông Tấn ở Trung Quốc- có một người ten là Trương Thiên Giản đưa bài văn của ông  đến cho  Lỗ Nạp xem, Lỗ Nạp bảo là thứ dỏm nên vứt vào sọt rác. Sau đó Thiên Giản viết lại, lấy tên là Thẩm Ước, lại đưa cho Lỗ Nạp xem, đọc câu nào ông đều tán thưởng câu ấy. Trần Tu Viên triều đại nhà Thanh viết một bài Tam Tự Kinh y học, lúc đầu ký tên là Diệp Thiên Sỹ, khi quyển sách đã  được lưu hành rồi mới dám đổi tên mình. Điều này trong lời tựa của Tu Viên có thể chứng minh rõ. Xem xét hai sự việc trên, giả sử các Chư tử thời Chu, Tần không dựa vào các vua chúa có công khai quốc, e rằng các học thuyết của họ đã bị tiêu diệt rồi, đầu còn truyền đến ngày nay nữa. Các Chư tử thời Chu, Tần có ý muốn cứu đời, phải dùng các biện pháp ấy, học thuyết của họ mới có thể tiến hành được. Không ít những người sau đã được khích lệ, chúng ta cần phải cảm ơn họ, thế nhưng để nghiên cứu cho ra chân lý không thể không xé toạc cái màn che chắn bên trong
Sau Khổng Tử, cũng có một thánh nhân trong đám bình dân ra đời. Người này là Quan Vũ mà ai nấy đều đã biết! Phàm người đã chết rồi thì sự nghiệp kết thúc, duy nhất có Quan Vũ sau khi chết còn liên quan đến nhiều sự nghiệp, vẫn tự dành lấy danh hiệu thánh nhân lại, đã viết nên “Đào Viên Kinh” (Ý nói về những lời thề của chuyện kết nghĩa Đào Viên: Lưu Bị, Quan Vũ và Trương Phi thời Tam Quốc), “Giác Thế Chân Kinh” (Chân kinh để giác ngộ cho đời) lưu truyền đời sau. Trước thời Khổng Tử, sự nghiệp và sách kinh điển của những thánh nhân ấy cũng giống như Quan Vũ mà thôi
Ngày nay ở một làng quê hẻo lánh nào đó, ngẫu nhiên có một người được hưởng giàu sang một tý chút; nói theo thuyết nhân quả, tức là người đó đã tích nhiều công lao ở dưới âm phủ. Nói rất hay: “Nào là phần mộ của ông ta rất tốt, đã phát rồi; xem tướng đoán số mện đều nói là tướng mạo anh ta khác thường so với mọi người”, tôi nghĩ lòng người thời thượng cổ không khác bao nhiêu so với hiện tại, đại khái cũng có người nói về thuyết nhân quả; nhìn thấy các đế vương mở mang lập nghiệp, thì nói hành vi của các đế vương ấy là rất đạo đức rất tốt, cách nói này cũng được lưu truyền , trở thành tái hiện của những sách vở các Chư tử thời Chu, Tần. Thêm nữa, con người ta đều có thành kiến, trong lòng đã có thành kiến, khi nhìn các vật thì hình tượng sẽ bị thay đổi. Người đeo kính màu xanh, nhìn mọi vật sẽ trở thành màu xanh; người đeo kính màu vàng, nhìn mọi vật đều trở thành màu vàng. Các Chư tử thời Chu, Tần sáng tạo ra một học thuyết, dùng con mắt của mình để quan sát người xưa, người cổ xưa tự nhiên đã thay đổi hình tượng, sao cho phù hợp với học thuyết của ông ta
Chúng ta hãy thử nghiên cứu Đại Ngu trong các thánh nhân. Đùi ông ta không có bắp, cẳng chân không có lông, đầu trọc đen, sắc mặt đen bóng, thế mà lại là nhà Kiêm Ái vì “mọi người mà không ngại gian khó”. Hàn Phi Tử nói: “Ngu triệu các vương hầu đến họp, họ đề phòng đến chậm bị Ngu giết chết”, ông ta lại trở thành một đại pháp gia, chấp pháp vững như núi vậy. Khổng Tử nói: “Ta không ưa Ngu mấy, chẳng thích ăn uống mà lại hiếu với quỷ thần, ghét quần áo mà lại thích mũ miện đẹp, không ưa ở nhà mà lại tận lực ở chốn ao chuôm”. Rõ ràng là một bậc rất thuần Nho, thế mà Khổng Tử lại có cái khẩu khí châm biếm bất đắc dĩ như vậy. Đọc những bài văn về nhường ngôi sau thời Ngụy, Tấn thì thấy bước đường ông đi như Tào Phi, Lưu Dục. Các vị Tống nho đã nói: Ông ta (chỉ Đại Ngu) trở thành nhà lý học rộng lớn. Trong tập thư có nói ông ta lấy một cô gái Đồ Sơn, là một hồ ly tinh, phảng phất giống như một thư sinh công tử ở Liêu Trai. Nói rằng ông ta thoa phấn mong làm thay đổi cô gái họ Đồ Sơn, lại phảng phất như khoe khoang sự phong lưu của đôi lông mày được vẽ ra. Lại nói ông ta trị thủy, đã lừa dối được quỷ thần, có điểm giống như Tôn Hành Giả trong “Tây Du Ký”, giống Khương Tử Nha trong truyện “Phong Thần”. Theo con mắt nhận xét của Tôn Ngô này, ông ta lúc đầu đã quên người thân thờ kẻ thù, tiếp đó lại cướp đoạt thiên hạ của người thù địch. Cuối cùng bức tử người thù cũ, chôn ở Thượng Ngô giống như những nhân vật quan trọng trong Hậu Hắc vậy. Con người này thật vô cùng quái dị, giả thật chẳng biết quái gì cả, những thánh nhân khác khéo  cũng chẳng kém ông ta là bao, nếu chúng ta suy nghĩ thêm một chút, vứt bỏ cái màn che bên trong cũng có thể làm rõ ra được. Bởi vì các thánh nhân là những nhân vật được kết thành bởi những hoang tưởng của người đời sau. Sự hoang tưởng của mỗi người đều không giống như nhau cho nên hình dạng của các thánh nhân có biết bao nhiêu cái khác nhau.
Tôi đã viết “Hậu Hắc Học”, từ thời nay đi ngược lại thời Tần, Hán thấy tương hợp, đủ thấy từ thời Xuân Thu Chiến Quốc đến nay, tâm lý của con người nói chung cũng tương đồng. lại truy cứu từ Nghiêu, Thuấn, Ngu, Thang, Văn, Võ, Chu Công thì biết được tâm lý của họ, thật là thần diệu khôn lường, làm theo lệ trời, tinh vi duy nhất, quả là “Hậu Hắc Học” không sao áp dụng cho được. Mọi người đều nói lòng người sau thời Tam Đại không cổ xưa, phảng phất như lòng người trước thời Tam Đại với lòng người sau thời Tam Đại đã trở thành hai phái khác biệt lắm, thế thì không kỳ quái lắm sao? Thật ra đâu có gì là kỳ quái; giả dụ ở thời Văn Cảnh, cũng dùng các biện pháp của Vũ Đế, xóa bỏ tên tuổi Bách gia Chư Tử vốn là thánh nhân, chỉ để lại một mình Lão Tử là thánh nhân mà thôi. Lão Tử đã tôn xưng Hoàng Đế thì Hoàng Đế cũng là thánh nhân. Trong đám bình dân chỉ có Lão Tử là thánh nhân thì trong các vua khai quốc chỉ có Hoàng Đế là thánh nhân. Tấm lòng của Lão Tử “Huyền Thông kỳ diệu, sâu sắc khôn lường”. Tấm lòng của Hoàng Đế cũng là “Huyền Thông kỳ diệu, sâu thẳm không thể biết được”, “Chính sách chủ trương của họ luôn luôn thầm lặng, dân của họ luôn thuần nhất”, sau Hoàng Đế nhân tâm không cổ hủ nữa. Thiên hạ mà Nghiêu đã cướp của người người anh, thiên hạ mà Thuấn đã cướp của bố vợ, thiên hạ mà Ngu đã cướp của kẻ thù, văn võ quần thần của Thành Thang đã phản lại vua. Chu Công là em đã giết anh, cuốn “Hậu Hắc Học” mà tôi viết ấy cũng chỉ có thể xét người lại tới thời Nghiêu, Thuấn thôi. Lòng người ở trước thời Tam Đại, lòng người ở sau thời Tam Đại đều dung hòa làm một mối. Nếu chịu khó tìm ngược về trước thì thấy lòng người ở thời đại Hoàng Đế và lòng người sau thời Nghiêu, Thuấn bị cắt thành hai mảnh. Giả dụ Lão Tử quả nhiên gặp vận may như Khổng Tử, ông đã trở thành một thánh nhân được vua ban. Tôi nghĩ cái danh hiệu Á Thánh của Mạnh Kha, nhát định sẽ bị Trang Tử cướp đi. Tứ Thư mà chúng ta đọc nhất định là của Lão Tử, Trang Tử, Liệt Tử, Y Tử; kinh thư mà chúng ta đọc nhất định là Linh Khu Tố Vấn, sách của Khổng – Mạnh cùng với sách của Quản, Thương, Thân, Hàn đều là dị đoan để nơi gác tía, chỉ có ai hiếu kỳ mới tình cờ giở ra xem, lễ ký trong Đại Học, Trung Dung giống với Mệnh Lệnh. Quy chế của vua; nhân tâm chỉ sợ 18 chữ, nếu tiềm ẩn những nét cổ xưa cũng chẳng có gì tinh vi kỳ diệu cả
Người đời sau giảng đạo nhất định hướng theo Đạo Đức Kinh, một môn huyền diệu sâu kín, cứ việc cặm cụi nghiền ngẫm, nhất định sẽ tạo ra cái thiên huyền, nhân huyền, lý tẩn dục tẩn…v.v.. Theo tôi nghĩ, chân tướng của thánh nhân chẳng qua là như thế cả (Sau này tôi ngẫu nhiên giở Thái Huyền Kinh có thấy từ ngữ thiên huyền nhân huyền, duy chưa thấy từ ngữ “Lý tẩn dục tẩn”)
Học thuyết chung của Nho gia đều lấy nhân nghĩa làm xuất phát, định ra một điều chung: “Người làm theo nhân nghĩa thì tốt đẹp, người không làm theo nhân nghĩa thì chết”, những thành bại xưa nay có thể hợp với điều chung này, thì gác qua một bên không bàn nữa. Xin nêu một ví dụ để nói: Thái Sử Công nói trong sử nhà Ân: “Tây Bá về rồi vẫn tu âm đức làm việc thiện”, sử nhà Chu thì nói: “Âm đức Tây Bá tốt đẹp làm việc thiện”, có thể thấy tác dụng của hai chữ “Âm”. Các thế gia đời Tề nói toạc ra: “Tây Bá siêu thoát quy vào đạo nghĩa, cùng với Lã Thượng mưu tu đức, nhằm lật đổ chính quyền nhà thương, việc ấy là thuật nắm binh quyền đầu phải thực lòng vì dân, các Nho gia thấy Văn vương đã thành công nên đã suy tôn ông hết cỡ. Từ Yễn Vương đứng lên làm việc nhân nghĩa, 36 nước chư hầu Đông Hán đều theo, Kinh Văn Vương ghét người hại mình đem binh tiêu diệt, đó là sự thất bại của kẻ làm việc nhân nghĩa, các nho gia lại tuyệt nhiên không nêu lên. Luận điệu của họ hoàn toàn giống như sự báo ứng của thuyết nhân quả được truyền tụng trong nhân gian, thấy người ta giàu sang thì nói người ấy có âm đức, thấy ai bị điện giật chết thì bảo người ta là kẻ nghịch tử bất hiếu, tâm của họ khuyên mọi người làm việc thiện, nhưng đạo lý chân chính thực sự đâu phải như vậy
Thánh nhân đời xưa quả là vô cùng kỳ quái, Lưu Bỉnh tán thưởng nơi mà thánh nhân đặt chân lên, lập tức thay lòng đổi mặt, thánh nhân cảm hóa con người, có sự thần diệu như thế? Tôi không lý giải được bố của Quảng Thái là thánh nhân, mẹ là thánh nhân, anh em điều là thánh nhân, vì bốn phương tám hướng đều bị các thánh nhân vây chặt, làm sao ở giữa lại có thể đẻ ra họ hàng cú vọ nhỉ!
Lý Tự Thành là tên giặc phiêu bạt khắp nơi, tiến vào Bắc Kinh, tìm thi thể Sủng Trinh Hoàng Hậu cho tắng ở bên cửa hoàng cung, liệm quan tài gỗ liễu, đặt tại cửa Đông Hoa, để cho mọi người đến cúng tế. Vũ vương là bậc thánh nhân, ông ta đến chỗ Trụ vương chết, bắn vào Trụ vương ba mũi tên, rút chiếc kích vàng lớn chém xuống, treo đầu lên lá cờ màu trắng, các cụ, các ông của Vũ vương là những người đã từng xưng thần trước cung điện Trụ vương, thế mà ông ta lại có những hành động ấy, phẩm chất và hành vi của ông ta, rõ ràng cũng là một vị thánh nhân tài tình duy nhất, quả là cực khó khăn lắm thay? Giả dụ cái án ấy không được phơi trần ra thật đầy đủ, Ngô Tam Quế đã đầu hàng, thì Lý Tự Thành sao không trở thành Thái Cao Tổ Hoàng Đế nhỉ?
Thái vương ngày từ đầu đã trừ tận gốc nhà Thương, Vương, Quý Văn Vương nối ngôi, Khổng Tử tôn xưng các vị Vũ vương, Thái vương, Quý Văn Vương, thật ra có khác gì Tư Mã Viêm, Tư Mã Ý, Tư Mã Sư, Tư Mã Chiêu chỉ khác là những người sống ở thời trước Khổng Tử được cái danh thánh nhân truyền lại đời đời, còn người sống sau Khổng Tử đều được cái danh nghịch thần cả
Người đời sau thấy các thánh nhân đã làm những việc không đạo đức, tìm trăm phương nghìn kế để giải thoát cho họ, đến lúc có những chứng cớ xác đáng, không có cách gì giải thoát được nữa, mới nói đến các sự tích kể trên, lại phụ họa với người đời sau. Mạnh Tử đã nói rõ dẫn chứng này, ông nói: “Đến lúc phải lấy nhân để đánh kẻ bất nhân, sẽ  không thể không có chuyện đổ máu. Các chuyện Sở Thành Vương đổ máu trần ngập ấy chắc chắn đâu phải là chuyện giả. Từ chuyện dân chúng nhà Ân làm Tam Phản, chúng ta thấy có quá nhiều chiếu chỉ thông báo, cứ xem những chữ viết trong đó, đủ thấy khi phạt trụ thì máu đổ đầy tràn không phải là chuyện giả, chỉ e rằng: “Lấy nhân đán kẻ bất nhân”, câu nói này có phần giả dối chăng?
Tử Cống nói: “Trụ vương không phải là kẻ thiện, chẳng qua nói quá vậy thôi, lấy danh nghĩa quân tử mà làm ác với nhứng kẻ hạ lưu, lại quy tội thiên hạ là ác vậy sao?”, tôi cũng nói: “Cái thiện của Nghiêu, Thuấn, Ngu, Thang, Văn vương và Chu công chẳng là quá xá sao, rõ ràng đều lấy danh nghĩa quân tử ngồi trên đám hạ lưu, lại quy cho thiên hạ đều là đẹp cả sao?”. Nhược bằng đổi chữ hạ lưu thành thất bại, đổi hai chữ thượng lưu thành thành công, còn cảm thấy xác thực hơn
Người xưa khi bày ra các đạo, các giáo, lập đàn tế lễ, lấy một người chết, chỉ cho chúng dân: “Đây là thần cúng tế”, chúng dân hướng vào đó gục đầu lễ bái. Đồng thời lại lấy đạo thánh giảng dạy, nói với chúng dân: “Học thuyết của ta là do các thánh nhân truyền lại”. Có người hỏi: “Đâu là thánh nhân?”. Người ấy tiện tay chỉ vào Nghiêu, Thuấn, Ngu, Thang, Văn vương và Chu công nói rằng: “Đây là các thánh nhân”. Chúng dân coi đó là những thi thể nói chung, hướng vào đấy gục đầu lễ bái. Về sau đã tiến hóa rồi, khi tế lễ đã bỏ đi những thi thể, duy chỉ có sự mê muội đối với các thánh nhân thì hàng nghìn năm vẫn chưa tỉnh được. Nghiêu, Thuấn, Ngu, Thang, Văn vương, Chu Công vẫn được sùng bái hàng bao nghìn năm
Những người giảng thuyết nhân quả, nói có Diêm vương, hỏi Diêm vương ở đâu? Họ nói: “Ở dưới đất”, những người giảng lý học, nói có nhiều thánh nhân, hỏi thánh nhân ở đâu? Họ nói: “Từ thời cổ”. Những quái vật ấy đều chỉ là tưởng tượng ra mà thôi, không thể nhận thấy, không thể chứng thực. Cái mà có thể chứng thực. là đạo lý của họ, càng huyền diệu, những người tinh lại càng nhiều. Những người sáng tạo  ra những nghị luận này, vốn chỉ khuyên người ta làm việc mà không xác thực có thể gây ra nhiều tệ nạn. Các tệ nạn của thuyết nhân quả sẽ gây ra nạn quyền phỉ (Một hội bí mật đời thanh, luyện tập quyền thuật rất tinh thông, tức là Nghĩa Hòa Đoàn – Les leoxers), cái tệ của các thánh nhân khiến chân lý không thể xuất hiện được
Sau khi Hán Vũ Đế tôn Khổng Tử là thánh nhân, dư luận trong thiên hạ từ đáy lòng đều chẳng ưa gì, nhưng không dám trái lệnh. Khổng Dung chỉ sơ lược bàn luận một vấn đề với bố mẹ, Tào Tháo đã giết ông ta. Kê Khang bài báng Thương Vũ, Tư Mã Chiêu đã giết ông ta. Nho giáo truyền bá được, đều phải dựa vào quyền lực nói chung như Thào Tháo, Tư Mã Chiêu. Về sau cho dù mở trường, tìm tòi kẻ sỹ, người đi học nếu không đọc sách của nho gia, sẽ chẳng còn đường để tiến thân. Một khổng tử đã chết, ông ta vẫn có thể tay trái nắm các tước quan, tay phải nắm lấy giang sơn, sao lại không trở thành người thầy của muôn đời được. Những nhân vật trong những học phái của các triều đại Tống, Nguyên, Minh, Thanh, trong tâm khảm của họ, nếu là những nhân vật đứng dưới chân ngựa của thánh nhân Khổng Tử cả, đã bị thánh nhân dẫm đạp, nên những nghị luận của họ đâu dám xa rời những điều vô căn cứ, đâu dám tránh những con đường quanh co khó hiểu
Các thánh nhân của Trung Quốc là những kẻ cực kỳ chuyên quyền độc đoán. Những điều mà họ chưa hề nói, người sau không dám nói, nếu nói ra, dân chúng nghe thấy đều coi là dị đoan, sẽ công kích họ ngay. Chu Tử phát minh được một thứ học thuyết, không dám nói là tự mình phát minh được một thứ học thuyết, không dám nói là tự mình phát minh được, đành phải nói là một thứ cách vật trí tri ở cửa Khổng Tử đem lại, giải thích thêm chút ít, nói học thuyết của ông ta đích thực là di truyền của Khổng Tử. Về sau mới có  người tin. Vương Dương Minh phát minh một thứ học thuyết mà ai nấy đều biết, cũng đành phải nói là một thứ cách vật trí tri, có giải thích thêm, về sau nhận là học thuyết, bảo rằng Chu Tử đã nói sai, học thuyết của anh ta mới đích thực là của Khổng Tử di truyền lại. Học thuyết của hai vị Chu, Vương vốn dương ngọn cờ độc lập, không cần, không cần dựa vào Khổng Tử thì học thuyết của họ tài gì mang ra áp dụng được. Hai người ấy đã tốn bao tâm lực để tìm chỗ dựa, thế mà người thời ấy còn nói là thứ ngụy học, bị công kích mạnh mẽ. Sự chuyên quyền của thánh nhân đến mức vậy thì làm sao nghiên cứu ra chân lý được?
Hàn Phi Tử - một nhà luật học thời chiến quốc – đã nói đùa rằng: “Người Dĩnh (tên địa phương, Thời Văn Vương nước sở dựng đô ở đất Dĩnh) gửi thư cho tướng quốc nước Yên (tên một nước thời chiến quốc, trong lịch sử Trung Quốc còn có cái tên: Tiền Yên, Hậu Yên, Nam Yên, Tây Yên và Bắc Yên; tên cũ của Bắc Kinh là Yên Kinh), khi viết trời tối xầm lại, kêu lên rằng: “thắp đuốc”, người viết thư bèn viết hai chữ thắp đuốc. Thư được đưa đi, tướng quốc nước Yên xem khá lâu, nói rằng: “Thắp đuốc thì sáng lên, sáng lên là ý nói biết dùng người hiền”, lời nói ấy được tâu lên vua nước Yên, vua nước Yên nghe theo lời tâu, đất nước trở thành đại trị, tuy có hiệu quả nhưng sai với bản nghĩa của lời thư”, cho nên Hàn Phi Tử nói: “Tiên vương có sách Dĩnh, hậu thế có nhiều thuyết về Yên”. Rốt cuộc bốn chữ cách vật trí tri sẽ giải thích ra sao, e rằng chỉ những người viết sách Đại Học mới rõ được mà thôi, trong hai ông Chu, Vương ít nhất cũng có một người không tránh khỏi sự phê bình của thuyết Yên trong sách Dĩnh. Đâu phải chỉ có bốn chữ “Cách vật trí tri”, e rằng cả Thập Tam Kinh (Kinh dịch, Kinh thi, Kinh thư, Kinh lễ, Kinh xuân thu, Chu lễ, Nghi lễ, Công dương, Cốc Lương, Luận ngữ, Nhĩ nhã, Mạnh Tử) trong các kho sách của Tống, Nguyên, Minh, Thanh đều có nhiều luận thuyết khéo léo, cũng  không tránh khỏi sự phê bình của “Thuyết Yên trong sách Dĩnh
Cái màn đen trong học thuật cũng giống như cái màn đen trong chính trị. Thánh nhân và vua chúa là một cái thai sinh đôi, đều là bầy lang sói dựa dẫm vào nhau ở khắp nơi cả. Thánh nhân không chịu phục tùng uy quyền cảu cái gậy vua chúa thì thánh nhân đã không được tôn sùng nhường ấy. Vua chúa không tuân theo cái gậy của học thuyết các thánh nhân thì vua chúa cũng chẳng thể làm càn, bậy bạ như vậy được, vì thế vua chúa đem danh hiệu của mình giao cho thánh nhân mới có thể xưng vương được. Thánh nhân đem danh hiệu của mình chia cho vua chúa, sẽ xưng thánh được. Vua chúa kiềm chế mọi hoạt động của nhân dân, thánh nhân kiềm chế tư tưởng của nhân dân, vua chúa phát ra một mệnh lệnh, nhân dân đều phải tuân theo. Nếu có người nào làm trái đều bị coi là kẻ đại nghịch, vô đạo, pháp luật sẽ không tha. Thánh nhân đưa ra một loại nghị luận nào, các học giả đều phải tin theo, nếu có ai phỉ báng đều bị coi là kể phi thánh, vô pháp, dư luận không tha thứ. Nhân dân Trung Quốc đã bị sự áp bức tàn khóc của chế độ quân chủ hàng bao nghìn năm, ý dân không thể được nêu ra, không trách nền chính trị luôn rối loạn. Các học giả Trung Quốc chịu sự áp bức tàn khốc của các thánh nhân hàng bao nghìn năm, tư tưởng không thể được độc lập; không trách học thuật bị chìm đắm. Vì học thuật có sai lầm, nền chính trị mới đen tối, cho nên phải cải cách mệnh chế độ quân chủ, cái mệnh của các thánh nhân cũng phải cải cách luôn thôi.
Tôi không dám nói nhân cách của Khổng Tử không cao, cũng không dám nói học thuật của Khổng Tử không tốt, tôi chỉ nói ngoài Khổng Tử ra, cũng còn có những nhân cách khác, những học thuyết khác. Khổng Tử không thể áp chế chúng ta, cũng chưa nói đến cấm chỉ những học thuyết khác lạ do chúng ta sáng tạo, không như những người đời sau chỉ biết đề cao Khổng Tử, áp đặt tất cả, khiến tư duy của các học giả không dám vượt ra ngoài phạm vi của Khổng Tử
Tâm khảm của các học giả bị Khổng Tử khống chế đã lâu rồi, đáng lẽ phải đẩy ông ta ra, tư tưởng mới có thể độc lập, mới có thể nghiên cứu ra được chân lý của vũ trụ. Thời trước, có người đã đẩy Khổng Tử ra, thời này, những người như Đác-uyn đã xông ra, chiếm cứ được tâm khảm của các học giả, dư luận thiên hạ lại nghiêng sang phía những người theo học thuyết Đác-uyn, trở thành một Khổng Tử biến hình, chấp hành nhữngnhiệm vụ của thánh nhân. Đã có những người chống lại học thuyết của họ, lại bị coi là đại nghịch vô đạo, bị chửi bới ầm ĩ trên các trang báo, tạp chí. Nếu những người theo học thuyết Đác-uyn phải ra đi, lại có thể có người nhảy ra, chấp hành các nhiệm vụ của thánh nhân, học thuyết của người ấy cũng sẽ không cho phép ai trái ngược được. Theo tôi nghĩ: Học thuật là nhiệm vụ chung của thiên hạ, cần phải nghe người ta phê bình, nếu tôi có nói sai, phải sửa đổi theo học thuyết của người khác, sẽ không hại gì cho tôi cả, hà tất phải áp dụng thái độ quân phiệt, cấm người ta phê bình
Phàm những việc đều lấy bình đẳng làm gốc, chế độ quân chủ không bình đẳng đối với các học giả, nên trong học thuật sinh ra rối loạn. Thánh nhân không bình đẳng đối với các học giả, nên trong học thuật sinh ra rối ren. Tôi chủ trương hạ bệ Khổng Tử xuống, cho ngang hàng với các Chư Tử thời Chu, Tần. Tôi và các chư vị độc giả cùng nhau tham gia, ngồi ngang hàng cùng với họ, hoan nghênh các vị theo học thuyết Đác-uyn, đối lập với nhau, tranh luận với nhau, không cho phép các vị theo học thuyết Khổng Tử hay Đác-uyn ngồi trên chúng ta, chúng ta cũng không ngồi trên chốc họ, ai nấy đều độc lập về tư tưởng, mới có thể nghiên cứu ra được chân lý
Tôi vốn đã hay hoài nghi các thánh nhân, cho nên mỗi khi đọc sách của các thánh nhân, không thể không hoài nghi được, vì thế đã định ra ba bước đọc sách để định rõ những bước đi của mình, tiện đây xin trình bày như sau:
Bước thứ nhất: Coi những điều cổ xưa là địch thủ; đọc các sách của những người xưa đều coi họ là những kẻ kình địch của tôi, có họ sẽ không có tôi, không thể không có trận huyết chiến với họ, tường bước tìm cho ra những kẽ hở của họ, nếu thấy kẻ hở nào thfi xông ra công kích; lại tìm ra các cách kháng cự những người thời cổ đại, càng đánh càng mãnh liệt, càng công kích càng sâu hơn, đọc sách như thế mới có thể hiểu được mọi nghĩa lý
Bước thứ hai: Coi những điều cổ xưa là bạn, tôi phải chịu khó đọc mới thấy, tức là nêu một chủ chương, chủ trương đối kháng với người xưa, lại coi người xưa là bạn tốt của mình, cùng nhau cọ sát. Nếu chủ trương của tôi sai, sẽ không nề hà sửa theo người xưa; nếu chủ trương của người xưa sai, thì dựa theo chủ trương của tôi, nghiên cứu tiếp thêm nữa
Bước thứ ba: Làm học trò của người xưa, những người xưa đã trước tác các sách, học thức rất sâu sắc, nếu tôi tin vào học lực của các vị thời xưa ấy, thì không nề hà đọc sách của họ, đem sách ra đọc và bình phẩm như một học sinh bình văn nói chung, nói lên được cái đúng, sẽ khuyên mấy vòng khuyên thật kín đặc; nói lên được cái không đúng, sẽ gạch mấy gạch thật đậm. Ngôn ngữ dung tục thế gian hàm súc nhiều ý hay, thú vị, nhưng không nhiều, huống hồ là sách của người xưa, đương nhiên có rất nhiều điều có lý chứa đựng trong đó. Phê bình càng nhiều tự nhiên tri thức càng cao, đó là điều nhờ đó mà lớn lên trong học tập phổ thông đã từng nói. Nếu gặp một người xưa mà tri thức tương đương với tôi, tôi mời người ấy và đối đãi như một người bạn già. Nếu gặp người có trí thức hơn tôi, tôi lại coi người này như một kẻ kình địch, tìm những khe hở của họ, để xem có thể công kích vào những khe hở đó được hay không
Tôi tuy đã định ra ba bước như vậy, kỳ thực vẫn chưa làm được, tự mình cảm thấy hổ thẹn. Tôi hiện nay mới làm được bước thứ nhất, muốn tiến lên bước thứ hai, vẫn chưa thể đạt được, còn lượng sức mình có lẽ suốt đời không thể đạt tới bước thứ ba. Giả dụ, tuy đã tìm ra được con đường phải đi, song con đường ấy quá dài, sức chân có hạn, đành phải cố gắng cất bước, đi từng đoạn lại tình cho đoạn bước tiếp sau vậy





Phần Bốn

TÂM LÝ VÀ LỰC HỌC

Chúng ta không thể quên được, năm Dân Quốc thứ 9 là kỷ nguyên mới trong sự phát triển tư tưởng của Tôn Ngô, “Hậu Hắc Học” của ông thực ra mà nói là bắt nguồn từ thuyết tính ác của Tuân Tử, về mặt lý luận không thể không nói rằng không dựa vào đấy, nhưng lúc ấy tự ông cũng cảm thấy chổ dựa ấy không đủ. Một hôm, ông cùng một người bạn là Tào Kinh Chiêm ngồi nói chuyện phiếm ở quán trà, Kinh Chiêm bèn hỏi Tôn Ngô rằng: “Bạn bè đều coi tư tưởng của ông là rất sắc bén, tại sao chỉ dừng ở mức độ đùa vui châm chọc thôi? Nên đi sâu nghiên cứu thành một học thuyết, nếu có phát minh cũng là vẻ vang cho bè bạn
Nghe lời nói đó ông rất cảm động, lại từ “Hậu Hắc Học” đi sâu nghiên cứu thêm một bước. Ông cho rằng  “Hậu Hắc Học” có quan hệ với tâm lý học, bèn tìm các sách tâm lý học trong và ngoài nước để đọc nhưng mãi vẫn không thể thu nhận được gì thêm. Ông đã hoang mang không biết theo ai, và theo bản tính ông gạ hết những lời thuyết của người xưa, đời nay, rồi dùng những quy luật của vật lý học để nghiên cứu tâm lý học. Một hôm đang đi ngoài phố, bỗng thấy linh tính lấy chữ “Tôi” làm chủ thể, phảng phất trước mặt có nhiều cái vòng vây lấy chữ “Tôi”, rồi mở rộng dần ra như cái nam châm vậy. Sự biến đổi nhân tâm đều theo quy luật của lực học, các sự tích cổ kim, việc chính trị ngày nay, việc vặt thường ngày, trong tâm khảm của mình, ở lý hóa số học, ở các thuyết phương tây đều biểu hiện rõ ràng, cảm thấy có thể thông được. Cũng lúc ấy, thấy ánh hào quang giác ngộ hiện lên ở người phật, và cũng lúc ấy “Thuyết tương đối” của AnhsTanh và thuyết của Niu-Tơn ứng dụng vào tâm lý học, rồi tìm ra một dự đoán “Tâm lý dựa vào quy luật của lực học biến đổi”. Trong năm ấy tôi viết một chuyên luận, tiêu đề là “Tâm lý và lực học” rồi dùng lực học và số học để giải thích mọi sự biến đổi của con người. Qua hơn mười năm nghiên cứu, bổ sung và chỉnh lý mới mở rộng thành một cuốn sách ra mắt người đời, cuốn sách này được xem là trung tâm tư tưởng của tôi. Đương thời, tôi đã tìm ra một dự đoán , muốn biến nó thành dẫn dụ. Đầu tiên tôi bắt đầu nghiên cứu “nhân tính luận” của Mạnh Tử và Tuân Tử. Mạnh Tử nói: “Đứa bé đang bế trên tay không đứa nào không yêu mẹ, đến khi lớn lên đứa nào cũng kính yêu anh”. Tôi cho rằng lời nói ấy chưa hẳn đã đúng. Thử mời một bà mẹ bế đứa con của mình làm thí nghiệm trước công chúng, nếu bà mẹ bế con và cho nó ăn cơm, đứa bé sẽ đưa tay kéo cái bát cơm trên tay mẹ, nếu không chú ý cái bát có thể rơi vỡ. Hiện tượng ấy sao có thể gọi là yêu mẹ được, rồi bà mẹ cầm trong tay một miếng bánh ngọt, đứa bé trông thấy vội giơ tay giằng lấy, nếu bà mẹ không có nó mà bỏ vào miệng mình, đứa bé ấy sẽ đưa tay móc miếng bánh ra rồi bỏ vào miệng nó. Hiện tượng ấy có gọi là yêu mẹ được không? Khi đứa bé đang được mẹ bồng bế trong lòng mà ăn cái gì đó, thằng anh đến gần, đứa bé đẩy anh ra và đánh anh, hành động này sao gọi là kính yêu anh? Trẻ em ở nước nào, châu nào cũng vậy. Sự thật có hiện tượng như thế thì thuyết “Tính thiện của Mạnh Tử rõ ràng là không đúng chăng?” nhưng câu nói: “Đứa bé đang bế trên tay không đứa nào không yêu mẹ, đến khi lớn lên đứa nào cũng kính yêu anh” rốt cuộc từ đâu mà ra. Muốn giải thích vấn đề này đành phải dùng phương pháp vật lý học để nghiên cứu
Thiên tính của con người lấy “Tôi” làm chủ thể. Tôi và mẹ đối lập nhau, đứa bé chỉ biết có cái “Tôi” nên móc miếng bánh từ trong miệng mẹ ra bỏ vào miệng mình. Mẹ là người cho tôi bú, anh là người anh là người mang thức ăn đên cho tôi, so sánh giữa mẹ và anh thì mẹ gần gũi hơn anh. Cho nên đứa bé yêu mẹ. Lúc lớn lên, “Tôi” tiếp xúc với hàng xóm, so sánh giữa anh với hàng xóm, thì anh gần gũi tôi hơn nên kính yêu anh
Từ đó suy ra, nếu đi ra khỏi làng thì yêu hàng xóm, nếu đi ra tỉnh khác thì yêu người tỉnh mình, nếu đi ra nước ngoài thì yêu người  nước mình, nó có một quy luật nhất định. Quy luật đó là cách tôi càng gần, tình yêu càng đằm thắm, tình yêu thương và khoảng cách tỷ lệ nghịch với nhau. Ta thấy trong câu nói “Đứa bé đang bế trên tay không đứa nào không yêu mẹ, đến khi lớn lên đứa nào cũng kính yêu anh” của Mạnh Tử đã chứa đựng chữ “Tôi” chẳng qua nói rõ ra thôi. Nếu bổ sung chữ tôi vào vẽ hình xem tự nhiên sẽ sáng tỏ ngay.


NGƯỜI NƯỚC NGOÀI

NGƯỜI TRONG NƯỚC


NGƯỜI TRONG TỈNH


HÀNG XÓM


ANH CHỊ EM


BỐ MẸ




TÔI
BỐ MẸ
ANH CHỊ EM
HÀNG XÓM
NGƯỜI TRONG TỈNH
NGƯỜI TRONG NƯỚC
NGƯỜI NƯỚC NGOÀI
Hình 1

Ở hình trên, Vòng thứ nhất là “Tôi” , vòng thứ hai là mẹ, vòng thứ 3 là Anh, vòng thứ 4 là Hàng Xóm, Vòng thứ 5 là Người cùng Tỉnh, vòng thứ 6 là Người cùng Nước, vòng thứ 7 là Người Ngoài Nước. Các vòng ấy ấy là hiện tượng của nhân tâm, rấ“Tôi”  giống với sức hút của tâm quả đất. Từ đó ta có thể biết tâm tính của con người giống với điện từ, giống với sức hút của tâm quả đất, cho nên định luật của Niu – tơn có thể vận dụng vào Tâm lý học.
Nhưng hình vẽ trên có chính xác không, còn phải khảo nghiệm. Ví dụ vào tiết tháng 3, chúng ta cùng người bạn đi chơi thấy non xanh nước biếc, trong người thấy thoải mái, nhưng đến chỗ đồi núi khô cằn, trong lòng cảm thấy buồn, nguyên do tại đâu? Bởi vì sông núi là vật, tôi cũng là vật, là chủ thể, cho nên gặp vật tốt thì vui, gặp vật xấu thì buồn, lại đi đến một nơi khác thấy trên đất có nhiều mảnh đá vỡ. Tại sao vậy? Bởi vì đá là vật vô sinh, còn hoa và “Tôi” là vật hữu sinh. Cho nên người thấy hoa rơi đã tức cảnh làm thơ phú mà không làm bài ca về đống đá đã vỡ kia. Các bài thơ cổ kính vịnh về hoa rụng được coi là hay, điều đó được gắn với tình cảm của con người. Nếu như trên đám hoa rụng lại có con chó sắp chết đang kêu thảm thiết làm kinh động lòng người, thì cảm xúc về hoa rụng bị đứt quãng, tại sao vậy? vì hoa là thực vật, chó cùng với “Tôi” là động vật, nên tự nhiên đồng cảm với chó hơn.
Lại ví dụ trên đường tôi gặp con chó dữ tợn đang cắn người, người ấy cầm gậy đánh chó, lúc ấy đang cắn người, chúng ta chỉ giúp người đánh chó, tại sao? Bởi vì chó là loài thú còn người kia là loài người, nên dĩ nhiên phải ủng hộ với người
Ta và bạn chia tay về nhà. Vừa về đến nhà đã có người bạn bảo ông bạn vừa chia tay ấy đi trên phố đang cãi nhau với một người, chưa biết phân giải ra sao. Ta nghe nói vội chạy đi cứu, do quan hệ bạn bè nên ta phải cứu bạn, ta kéo bạn về nhà hỏi nguyên nhân cãi nhau, lúc đang nghe nói bỗng nhiên trần nhà bị đổ, ta vội nhảy ra ngoài, quay đầu gọi bạn: “Sao không chạy đi?” thử hỏi thấy trần nhà đổ tại sao không gọi bạn trước mà mình chạy trước rồi mới quay đầu gọi bạn. Điều ấy chứng minh đó là thiên tính con người, là cái “Tôi” là chủ thể
Chúng ta đem sự việc nói trên vẽ thành hình 2
Vòng thứ nhất là “Tôi”, vòng thứ 2 là bạn, vòng thứ 3 là người khác, vòng thứ 4 là chó, vòng thứ 5 là hoa, vòng thứ sau là đá. Quy luật của nó là: “Càng cách xa tình yêu càng giảm, tình yêu tỷ lệ nghịch với khoảng cách

ĐÁ

HOA


CHÓ


NGƯỜI KHÁC


BẠN




TÔI
BẠN
NGƯỜI KHÁC
CHÓ
HOA
ĐÁ
Hình 2

Việc sắp xếp vị trí hình 2 khác hẳn với hình 1 nhưng kết quả thu được lại giống nhau, đủ để chứng minh luật của tạo hóa là như vậy. Tóm lại nếu có hai vật hiện ra trước mắt ta, ta không cố tình sắp xếp thì dĩ nhiên cái “Tôi” là chủ thể. Tùy theo khoảng cách ta xa hay gần mà tình yêu đậm hay nhạt giống như sức hút của tâm quả đất
Còn một chứng cứ nữa để nói lên thuyết tính thiện của Mạnh Tử, ông nói: “Hôm nay, chợt thấy một gã rơi xuống giếng thì cảm thấy xót xa thương tiếc”. Cứ xem chữ nghĩa thấy câu nói này có gì chưa ổn. Ở trên ông nói hai chữ “Xót xa”, tại sao ông nói “thương tiếc” xuống dưới mà không nói “xót xa”, chỗ chưa ổn là ở đây. Xót xa có hàm ý kinh sợ, nguồn gốc của chữ “Tôi”. Lúc chợt  thấy một gã rơi xuống giếng, trước mắt có 3 vật, một là “Tôi”, hai là “”, ba là “giếng”. Ta và gã là tính người, giếng là  vật vô sinh, thấy gã ấy rơi xuống giếng, cái “chết” hiện ra trước mắt ta cho nên cảm thấy xót xa, tiếp đó đồng cảm với gã bị rơi chứ không đồng cảm với giếng; tất nhiên đầu tiên là “Tôi” rồi mới đến gã, vì “Tôi” sợ chết nên mới cảm thấy gã ấy rơi xuống giếng là chuyện bình thường, sẽ không cảm thấy xót  xa. Không có “Tôi” thì không có gã, không có xót xa, không có thương tiếc. Gã là ảnh phóng to của “Tôi”, thương tiếc là ảnh phóng to của xót xa. Mạnh Tử dạy người ta là mở rộng lòng thương tiếc là rất tốt, chỉ hiểm ông nói thiếu một câu: “Thương tiếc từ xót xa mở rộng ra”. Do đó người đời sau lại hiểu lầm sai lệch đi. Nhất là đám Tống nho nhận ra điểm này, cho rằng thương tiếc là gốc của nhân tính, quên mất rằng ở trên thương tiếc còn hai chữ xót xa, cho nên trong mọi cuộc bàn luận đều lấy thương tiếc làm điểm xuất phát, khác nào hủy diệt nhân tính vậy. Học vấn của họ tập trung vào việc “Khử nhân dục tồn thiên lý”, cho nên coi xót xa là nhân dục, ra sức khử bỏ đi thì đâu còn thương tiếc nữa. Họ đâu biết xót xa là nguồn gốc của thương tiếc, nếu bỏ xót xa thì làm  gì có thương tiếc
Học trò Trình Tử chuyên làm việc “Khử nhân dục” tức là chuyên việc “Khử xót xa”. trong đám học trò có Lữ Nguyên Minh đi kệu qua sông ngã xuống nước những người đi theo chết đuối, riêng ông ta vẫn bình thản ngồi trong kiệu, không hề cử động, ông ta fà người đã khử mất xót xa, cho nên thấy người chết đuối  không động lòng thương tiếc. Học phái của Trình Tử truyền đến Nam Đô, bố của Trương Nam Hiên là Trương Ngụy Công đi trận mạc ở Phù Li, quân tướng chết hơn chục vạn người, đêm đến vẫn ngủ ngon gáy to như sấm mà  Nam Hiên  còn khoe bố ông ta rất tinh thông tâm học. Trương Ngụy Công là người khử mất xót xa, coi người chết như rơm rác nên không động lòng thương tiếc. Bản thân Trình Tử cũng  là người khử mất xót xa nên mới nói: “Đàn bà chết đói là chuyện nhỏ, thất tiếc mới là chuyện lớn”, trách gì Đái Đông Nguyên nói Tống nho là bọn dùng “Đạo lý giết người”. Tâm lý của loài người biến đổi theo quy luật của lực học. Lực có hai loại là Ly Tâm và Hướng Tâm. Ở hình 1 các vòng phát triển ra ngoài, đó là hiện tượng Ly tâm. Hình 2 các vòng thu vào trong, đó là hiện tượng Hướng tâm. Mạnh Tử đứng trong hình 1 nhìn ra ngoài, thấy thiên tính của con người lúc nhỏ thì yêu mẹ, lớn lên yêu anh, lớn nữa yêu hàng xóm, rồi yêu người trong tỉnh, yêu người trong nước, nếu mở rộng ra hơn nữa còn có thể yêu cả loài người, loài vật nữa, từ đó đoán được tính người là thiện rồi kêu gọi người ta đem tính thiện vốn có ấy phát triển lên. Tuân Tử đứng ở hình 2 nhìn vào tỏng thấy tâm tính của con người thấy hoa thì quên đá, thấy chó thì quên hoa, thấy người thì quên chó, thấy bạn thì quên người khác, thu hẹp lại đến lúc trần đổ xuống chỉ còn mình ta, thậm chí quên luôn cả bạn hiền. Từ đó đoán định tính người ta là ác, rồi kêu gọi người ta dập bớt tính ác cố hữu đi. Hiện tượng ấy không liên quan đến tính thiện tính ác, chỉ cần giả định “Tâm lý biến đổi theo quy luật của lực học”, đem định luật sức hút của Niu - tơn, thuyết tương đối của Anhstanh ứng dụng vào tâm lý học, đem vật lý sánh cùng tâm lý để nghiên cứu, không đơn giản và rõ ràng hơn hay sao? Cứ phải đem cái tính thiện, tính ác ra tranh luận mãi không thôi cho khổ
Mạnh Tử nói yêu mẹ kính anh, nói xót xa thương tiếc, trong đó ẩn chứa chữ “Tôi” nhưng ông bắt đầu từ vòng thứ hai, còn cái “Tôi” ở vòng thứ nhất lại bớt đi không nói. Dương Chu theo thuyết “Vị Ngã”, ý muốn vạch rõ vấn đề ở vòng thứ nhất, nhưng ông chỉ chuyên nghiên cứu ở vòng thứ nhất mà không chú ý đến vòng thứ hai và các vòng khác nữa. Còn Mặc Địch leo cao nhìn xuống bỏ mất cái “Tôi” ở vòng thứ nhất, chủ trương “Yêu không sai” là không biết phân ra vòng lớn vòng nhỏ, chỉ vẽ một vòng cực lớn. Dương Chu chỉ có vòng nhỏ không nắm được vòng lớn. Mặc Địch có vòng lớn không nắm được vòng nhỏ. Hai người đều không biết rằng: hiện tượng thiên nhiên là có vòng lớn vòng nhỏ, tầng tầng lớp lớp bao quanh
Mạnh Tử, Tuân Tử nhìn thấy tầng lớp các vòng bao quanh, nhưng học thuyết của Mạnh Tử là các vòng mở rộng dần ra còn học thuyết của Tuân Tử là các vòng thu hẹp dần nên không tránh khỏi hiện tượng thiên lệch một bên. Chúng ta lấy cái “Tôi” của Dương Chu làm tâm điểm, bên ngoài thêm một số chữ yêu nữa thì phù hợp với hiện tượng thiên nhiên. Cũng cần nghiên cứu và phân tích thuyết “Tự tư” của Tống nho. Tư đối lập với công nhưng không tuyệt đối. Giả sử chỉ biết đến ta mà không dòm ngó đến vợ con, vẽ riêng ta đứng trong vòng , vợ con ta sẽ nói ta tự tư. Bây giờ xoa cái vòng ấy đi. Khoanh cả vợ con vào trong vòng thì anh em sẽ ở ngoài vòng, anh em lại nói ta tự tư. Bây giờ ta xóa cái vòng cả vợ con đi, vẽ cái vòng khác có cả anh em trong ấy, làng xóm ở vòng ngoài, họ lại nói ta tự tư, ta lại xóa cái vòng anh em trong ấy, rồi vẽ vòng khác có cả hàng xóm trong ấy, những người trong nước ở ngoài vòng lại nói tự tư. Cho nên cuối cùng phải xóa cái vòng có người trong nước ở đấy rồi vẽ một cái vòng thật lớn chưa cả nhân loại mới có thể gọi là “Công”


QUẢ ĐẤT

LOÀI NGƯỜI





NGƯỜI TRONG NƯỚC


HÀNG XÓM


ANH CHỊ EM


VỢ CON




TÔI
VỢ CON
ANH CHỊ EM
HÀNG XÓM
NGƯỜI TRONG NƯỚC
LOÀI NGƯỜI
QUẢ ĐẤT

Nhưng vẫn chưa thể gọi là công nếu như động vật, khoáng vật biết nói. Cầm thú nhất định nói: “Tại sao loài người các anh lại giết hại chúng tôi? Thế chẳng hóa ra là tự tư quá chăng”; thảo mộc sẽ hỏi cầm thú: “Tại sao các người lại ăn chúng tôi? không phải tư lợi sao?”. Đất lại hỏi thảo mộc: “Tại sao các người lại hút hết chất dinh dưỡng của tôi?Chẳng tự tư tự lợi sao?”. Đất cát sỏi đá lại hỏi tâm quả đất: “Ta dắt nười bay vòng quanh, có lúc người  chạy ra ngoài và ngầm muốn điều khiển ta nữa, ngươi tự tư quá đấy. Nói thêm nếu như mặt trời sợ quả đất bảo mặt trời tự tư, mặt trời bỏ quả đất thì quả đất sẽ bị tiêu diệt ngay
Cứ suy diễn theo cách ấy thì khắp thế giới này không thể tìm đâu ra chữ “Công”. Gọi là công trong phạm vi nào đó, người trong phạm vi ấy cho là công, người ngoài phạm vi cho là “tư” đi khác nào trừ bỏ mọi sức hút, trừ bỏ hết thì sẽ không có loài người, không có thế giới. Thuyết tự tư của Tống nho không thể nào không được
Thử hỏi chữ tư không từ bỏ được, mà để chữ tư thì có hại, phải xử lý như thế nào? Xin thưa có cách: Tự tư của con người như muôn vàn sức hút, chúng ta dùng cách trị sức hút để trị tính tự tư của con người. Theo hình vẽ trên, các vòng lớn vòng nhỏ tầng lớp bao quanh đều là hiện tượng sức hút của quả đất, tự nhiên là tất nhiên. Ta theo quy luật ấy để sắp xếp mọi sự vật trong thế gian này theo trật tự, giống như các tinh cầu trong thế gian này theo trật tự, giống như các tinh cầu trong vũ trụ hút đẩy nhau để tồn tại, thì sự đời sẽ bình an vô sự
Từ các sự tích cổ xưa, ta tìm quỹ đạo của tâm lý
Nhân tâm tuy khó lường, nhưng qua việc họ có thể xem xét tâm lý của họ được, 24 bộ sử ấy là dấu ấn lưu lại tâm lý của nhân loại, ta rút các sự tích lịch sử ra, so với quy luật lực học rồi vẽ thành hình, thấy sự việc con người mênh mông lộn xộn, đều có quỹ đạo nhất định. Cách vẽ hình là: Nếu trong tâm ta nghĩ đến việc gì thì coi vật ấy là một vật thể. Trong tâm thích nó là muốn nó đến gần, nếu không thích nó là muốn đẩy nó ra xa. Từ quy luật đẩy hút nhau có thể tìm ra quỹ đạo
Khổng Tử nói: Người Ngô người Việt ghét nhau khi họ đi cùng thuyền gặp sóng gió  thì lại cứu nhau như anh em. Lý do là thuyền sắp chìm, người Ngô người Việt đều muốn cứu thuyền khỏi đắm, trở thành tuyến hợp lực giống nhau, thường ngày là kẻ thù, giờ đây trở thành bạn bè cứu nhau trong hoạn nạn
 












Trận bội thủy (Trận Hàn Tín dàn quân quay lưng ra sông đánh ngược trở lại, giành thắng lợi) của Hàn Tín đặt ở đất chết mà sống lại. Hán binh của Trần Dư vây ép, trước mặt là sông lớn, là đường chết, chỉ có quay người lại, đẩy lính Trần Dư ra mới là đường sống. Mọi người đều nghĩ vậy, trở thành tuyến hợp luật giống nhau, toán quân ô hợp trở thành đoàn kết thống nhất. Hướng lực tuyến hợp với Hàn Tín, nên Hàn Tính giành thắng lợi

 






                              

 

 


Trương Nhĩ, Trần Dư là bạn tâm giao ruột thịt. Khi Trương Nhĩ bị quân Tần vây khốn, cho người đi  cầu cứu Trần Dư, Trần Dư sợ Tần không dám đến cứu, hai người trở nên thâm thù.  Lúc đó Trương Nhĩ đẩy quân Tần về phía Trương Nhĩ, hướng lực tuyến đẩy nhau, để bọn ruột thịt biến thành kẻ thâm thù. Kết quả Trương Nhĩ giúp Hàn Tín giết chết Trần Dư chìm xuống nước
Cuối đời Tàn Doanh Chính, chính quyền nhà Tần hà khắc tàn bạo, Trần Thiệp hô hào các hào kiệt phương Đông nhất tề nổi dậy, chẳng ai liên lạc tự nhiên kết thành. Đó là do dân chúng bị áp bức đã lâu, mọi người đều muốn đánh đổ nhà Tần, quyền lợi giống nhau, tạo thành tuyến hợp lực đồng hưởng, tự nhiên hợp lại. Lưu Bang, Hạng Vũ lúc đầu khởi binh, ý chí cùng diệt Tần, mục đích giống nhau trở thành hợp lực tuyến, dù người khác họ có thể kết thành anh em. Sau khi diệt Tần, mục đích đạt rồi, chỉ còn lại giang sơn, Lưu Bang muốn đoạt lấy, lực tuyến ngược nhau, anh em khác họ đánh giết lẫn nhau. Lúc Hạng Vũ xưng bá, Lưu Bang nghĩ: Diệt được Hạng Vũ là xong. Hàn Tín, Bành Việt cũng nghĩ: Diệt được Hạng Vũ là yên ổn. Tử tưởng của ba người giống nhau, tự nhiên thành hợp lực tuyến nên hội quân ở Cai Hạ và diệt Hạng Vũ. Hạng Vũ bị diệt rồi, vua tôi không còn nhu cầu hợp lực, tư tưởng mỗi người nghĩ đến quyền lợi. Nói đến quyền lợi, anh được nhiều tôi chỉ được ít, lực tuyến xung đột, cho nên Hán Cao Tổ đã giết hại công thần

 






                              

 


Đường Thái Tông giành ngôi nhà Tùy, Minh Thái Tổ giành nhà Nguyên, mới khởi đầu khởi binh giống nhau như Triều Hán. Sau khi thành công, anh em nhà Đường giết nhau, còn nhà Minh thì công thần bị diệt cả họ, khác nào Hán Cao Tổ
Sau khi dành được thiên hạ, lực tuyến vua tôi trở nên xung đột, vua tôi không diệt bề tôi, bề tôi sẽ diệt vua, xem hai lực mạnh yếu mà đoán được sự tồn vong của ai. Lý Tự Nguyên phò tá Đường Trang Tông diệt Lương, diệt Khiết Đan, lực của Trang Tông không áp chế nổi ông ta, ông ta bèn đoạt ngôi vua của Trang Tông. Triệu Khuôn Dẫn phò Chu Thế Tông phá Hán diệt Đường, lực của Vua kế vị không áp chế nổi ông ta, ông ta bèn đoạt lấy giang sơn nhà Chu. Đó là gương phản chiếu nếu Lưu Bang không giết Hàn Tín vậy
Sau khi Hán Quan Vũ bình thiên hạ, Đặng Ngu Cảnh Hạp đem binh quyền giao hết, ở nhà đóng cửa đọc sách, đó là nhìn rõ con đường đi của Quan Vũ mà nhường bước. Tống Thái Tổ dùng chén rượu để giải giáp bình quyền, đó là cách đi riêng của ông ta, kêu gọi người khác lui ra. Thực ra tâm lý của Hán Quang Vũ, Tống Thái Tổ cũng giống như Hán Cao Tổ. Chúng ta không thể nói Hán Cao Tổ là tàn bạo, cũng không thể nói Hán Quan Vũ, Tống Thái Tổ là khoan dung mà chỉ có thể nói đó là quy luật của lực học
Nhạc phi muốn đem Trung Nguyên đổi cho sứ Nam, Tần Cối đem Trung Nguyên đẩy lên sứ Bắc; Nhạc phi muốn đưa Vi Khâm Nhị Đế tiếp sứ Nam. Tần Cối muốn đưa Vi Khâm Nhị Đế tiếp sứ Bắc. Cao Tông, Tần Cối thành tuyến hợp lực có hướng giống nhau, hướng đó ngược chiều với hướng của Nhạc Phi, lực của một mình Nhạc Phi không địch nổi hợp lực của Cao Tông, Tần Cối cho nên phê mấy chữ là vào tù, Nhạc Phi không thể không chết
 











Trên lịch sử ai cản trở đường đi đều mang họa vào thân. Lưu Tiên Đế giết Trương Dục, Gia Cát Lượng hỏi: “tội gì?”, tiên đế nói: “Học trò của Phương Lan không thể không từ bỏ”. Phương Lan tội gì? tội tại học trò đâu phải tại đất. Triệu Thái Tổ đánh Giang Nam, Từ Huyền Sinh thư thả hãy xuất quân, Thái Tổ nói: “Nằm ngủ há để người ngáy to bên cạnh!”. Ngáy to có tội gì? Tội do ngủ ngày đâu phải do đất. Xưa nay còn có chuyện lạ lùng: Hai anh em Địch Thích, Hoa Sỹ trên không thờ Vua, dưới không làm bạn với Chư Hầu, cày ruộng mà ăn, đào giếng mà uống, ở nơi heo hút, nằm dưới gối của mình mà ngủ tưởng rằng tránh được tai họa. Thái Công đến Dinh Khâu, đem họ ra giết ngay, thế còn gì là đạo lý nữa. Bởi vì lúc ấy Thái Công đang muốn dùng tước lộc, để sai khiến hào kiệt, chỉ có hai người này không chịu nhận tước lộc, nghêng ngang trước mặt. Họ đã cản đường đi, dung làm sao nổi? Thái Công là Thánh nhân, Địch Thích và Cao Sỹ là bậc cao sỹ, cao sỹ cản trở đường đi, thánh nhân cũng  không dung được. Đó là lẽ thông thường. Phùng Mông giết Thăng do thầy cản đường học trò. Ngô Khởi giết vợ do vợ cản đường đi của chồng. Hán Cao Tổ chia đất Nghiệp do bố cản đường đi của con. Nhạc Dương Tử ăn phân do con cản đường đi của cha. Chu Công giết Quảng Thái, Đường Thái Tông giết Kiến Thành, Nguyên cát là anh cản đường của em. Có thể nếu tuyến đi xung đột thì cha con, anh em và vợ chồng có cớ giết nhau
Vương Mãng gặp Hoàng Ôn thì bỏ phụ tần, Ân Hạo không rõ lẽ đó; Phạm Lãi diệt Ngô xong bèn trèo thuyền đi Ngũ Hồ, Văn Chủng không rõ lẽ đó nên thất bại. Ngoài ra còn chuyện Hàn Phi là tù nhân của Tần, Tử Tế đấu kiếm, Kê Khang bị diệt, Nguyễn Tịch thoát họa; ta thử đem bọn Hàn phi ra nguyên cứu một chút, chuyện Lý Tư thử Hàn Phi, chuyện sai tính giết Tử Tế, chuyện chứa chấp Nguyễn Tịch, chuyện Tư Mã Chiêu giết Kê Khang, tìm ra điểm cần chú ý trong tâm mỗi người, khảo sát đường đi trải qua của họ, thì biết có xung đột hoặc không xung đột, chắc không ra ngoài luật định.
Vương An Thạch nói: “Thiên biến chẳng đáng sợ, người nói chẳng đáng nghe, tổ tông chẳng sợ phép”. Câu nói này muốn hợp với đạo lý, ngày đó nhờ ba câu mà ông được trọng dụng. Ngày nay chúng ta đọc câu này, cảm thấy ông ta đang bực bội mắng người, trong lòng không được thư thái nếu chúng ta vào thời ấy, hẵn sẽ không tránh khỏi xung đột với ông ta. Trần Hoành Mưu nói: “Phải trái phải xem xét mình, bỏ danh dự phải nghe người khác, được mất là tại số”. Ba câu nói này về ý nghĩa giống với Vương An Thạch, nhưng khi chúng ta đọc lên thấy ông này hòa nhã đáng gần. Tại sao vậy? bởi vì Vương An Thạch đi nghênh ngang trên đường dù trên đường có thiên biến, người nói, tổ tông, ông ta vẫn gạt phăng mà đi còn Trần Hoành Mưu đặt chữ “Mình”, chữ “Người”, chứ “Số” thành ba tuyến song song, cái nọ không xung đột với cái kia. Chúng ta nghe Vương An Thạch tự nhiên đặt mình vào chữ “Người” ở câu “Người nói chẳng đáng nghe”. Nghe Trần Hoành Mưu nói tự nhiên đặt mình vào chữ “Người” ở câu “Bỏ danh dự, phải nghe người khác”. Lực tuyến tâm chúng ta thích người ta nhường mình, cho nên tình cảm của ta đối với hai ông Vương, Trần cũng khác nhau. Nếu hiểu được lẽ này, gặp việc tiếp vật sẽ có cách xử lý thích hợp. Theo quy luật của lực học và điện từ học, nói rõ thêm về quỹ đạo tâm lý học. Chúng ta đem phân tử một vật thể tìm ra nguyên tử, đem nguyên tử phân tích thì tìm ra điện tử, điện tử là một loại lực, các nhà khoa học đã chứng minh rồi. Người là một loại vật thể, không thể chúng ta do điện tử tập hợp lại mà thành, thân và tâm vốn cùng một vật cho nên tâm lý của tâm không thoát khỏi quy luật của luật học, của điện từ học. Tác dụng của điện từ là sức đẩy và sức hút, tâm lý con người cũng vậy. Con người ta có bảy tình, khác hẳn nhau. Chỉ có hai loại Yêu và Ghét. Tâm ta yêu cái gì thì hút nó lại gần, tâm ta ghét cái gì thì đẩy nó ra xa. Hiện tượng giống với điện từ. Tâm của người chia làm ba loại: Biết, Tình, Ý; Ý là vật hỗn  hợp giữa Biết và Tình. Điện Từ đồng tính đẩy nhau, khác tính hút nhau, tác dụng đẩy nhau hút nhau của nó là hiện tượng của tính. Có thể phân biệt đồng tính, khác tính lại chứa đựng cả tác dụng Biết nữa, nên ta thấy điện từ cũng có Biết và Tình. Loài người trai gái yêu nhau là khác tính hút nhau; đồng nghiệp ghét nhau là đồng tính đẩy nhau. Lúc điện dương gần điện âm, nếu có một luồng điện dương khác đến muốn chia điện âm, tự nhiên điện dương trước sẽ đẩy điện dương sau đó, điện âm đẩy điện âm, lý lẽ cũng vậy trẻ con lúc ăn thấy anh nó đến nó lấy tay xua anh đi. Điện âm dương gặp nhau, hợp mong muốn nên hút nhau mạnh, hiện tượng đó giống với tính người.
Trong Vũ Trụ, dù là vật hữu hình hay là vật vô hình đều chứa lực hút vào trong, thông thường gọi là tâm. Với con người lực ấy phát ra từ ngũ quan hút các sự vật từ bên ngoài vào, tập hợp lại. Ví dụ có một vật ở trước mắt ta, ta chú ý nhìn tức là lực hút từ mắt phóng ra nối liền với vật thể ấy. Ta nhắm mắt lại có thể hình dung ra hình dáng của vật ấy tức là lực đã hút vật ấy về phía tâm, chúng ta xem xét nguồn gốc những tri thức mà tâm có được đều là từ bên ngoài đưa vào. Nó phải đi qua mắt, tai, mũi, lưỡi, da mà khi vào tâm rồi có thể phát minh ra cái mới nhưng vẫn phải dựa vào trì thức thu nhận từ bền ngoài làm nền tảng. Như ta xây nhà tất cả gạch ngói đá đều phải mua từ bên ngoài. Giả định ra xét tất cả tri thức mà ta có, nếu từ mắt vào rồi lại từ mắt tuôn ra, vào con đường nào ra đường ấy thì tâm của chúng ta sẽ trống rỗng chỉ còn một lực tự nhiên thôi
Chúng ta xem xét tâm mình, mọi sự việc biến đổi đều dựa theo quỹ đạo của lực học, lúc vui mừng, lực tuyến phát triển ra ngoài, lúc lo sợ, lực tuyến co rút vào trong, gặp lúc sợ sự bất ngờ, muốn đi phía đông, phía đông gặp trở ngại, muốn đi sang phía tây, phía tây gặp trở ngại, lực tuyến không biết đi đâu, tâm trở nên hoảng loạn. Với học thuyết nào đó thừa nhận tự nó sẽ hút vào mà tiếp nhận, nếu ta phủ nhận nó sẽ đẩy ra. Gặp một học thuyết  thấy vừa có lý, vừa không có lý, hút vào không được, đẩy ra không xong, nên có trạng thái hồ nghi. Tâm người ta khi nghiên cứu lý lẽ sự vật theo trực tuyến mà đi, đến điểm A lý không thông suốt, quay sang điểm B lại không thông suốt, quay sang điểm C. Ba đường gãy khúc của tâm như vòng xoáy của nước suối. Nước suối chảy theo đường thẳng, tuy xoáy lượn quanh co vẫn không thoát khỏi quy luật của tự nhiên học, tâm của chúng ta cũng thoát khỏi hai tác dụng đẩy và hút. Có lúc thanh tâm tĩnh tọa, bỏ mặc sự đời, không đẩy và hút ai và không bị ai đẩy hút giống như cái hồ mênh mông sâu thẳm, gió yên sóng lặng, mình cảm thấy lâng lâng nhẹ nhõm. Tâm lúc này tuy không hiện rõ tác dụng gì, thực ra bao nhiêu tác dụng đều ẩn náu vào trong. Tâm lý con người thông với điện từ, lúc điện khí trung hào không có tác dụng gì, khi có tác dụng sự biến động  thật ghê gớm, nếu hiểu rõ quy luật của điện từ thì sẽ hiểu được tâm lý con người
Mỗi người có một tâm tức là mỗi người có một lực tuyến, các lực tuyến điều phát triển ra phía ngoài hễ gặp cản trở là xung đột, tại sao lúc bình thường việc xẩy ra xung đột không nhiều? Bởi vì các lực tuyến có nhiều nguyên cớ khác nhau, như lực này và lực kia không giao nhau, người này làm việc này, người kia làm việc khác nhưng không can thiệp vào nhau. Có khi lực này tiêu hủy lực khác như có người muốn hại người khác, ý đồ rất lớn nhưng ta không chơi với họ nên cắt đứt. Có khi lực hợp nhau như người khiên kiệu đi nhanh hay chậm đều phải ăn ý với nhau. Có khi lực với lực cần nhau như người bán vải với thợ may, hai bên cần nhau cho nên yên ổn. Có khi lực lớn chèn ép lực nhỏ như trẻ con đang chơi đùa vui thú, bố mẹ sai đi làm việc gì đó, đứa bé tuy không muốn nhưng vẫn cứ phải làm, đó là lực của bố mẹ chèn ép lực của con. Lại như bạn bè chơi với nhau  rất thân, có điều khác ý nhỏ có thể bỏ qua được. Lại có khi lực lớn thu hút lực nhỏ như có người có sức hút rất lớn, ông ta có thể thu hút những người xung quanh thành một đoàn thể nhỏ, do tác dụng hợp lực, lực càng lớn sức hút ra ngoài càng lớn thì khuynh đảo được thiên hạ. Chúng ta quan sát kỹ thì thấy người với người tiếp xúc với nhau, lực tuyến đan xen như lưới, có nhiều tuyến nếu không xung đột thì  do cần nhau mà hợp thành. Loài người chung sống với nhau là do nhu cầu tồn tại trên quả đất, lẽ đời là vậy. Mọi sự biến đổi trên đời đều do con người tiếp xúc với nhau mà tạo ra. Một cá nhân, một cái “Tôi”, giả địn về số học là nhị nguyên, một là X, một là Y, theo giải thích hình học có thể tìm ra 5 loại tuyến:
1/ Trực Tuyến
2/ Tuyến hình tròn
3/ Tuyến cầu vòng
4/ Tuyến bầu dục
5/ Tuyến gấp khúc
Việc con người thiên biến vạn hóa, vẫn là chuyện người và người tiếp xúc với nhau nhưng không ra khỏi quỹ đạo 5 loại tuyến. Những ví dụ lịch sử nêu ở trên đều thuộc “Hai loại tuyến”. Lấy “Tôi” làm trung tâm vẽ hình có 3 vòng, đó thuộc “Tuyến hình tròn”, ngoài ra còn có Tuyến cầu vồng, Tuyến bầu dục, Tuyến gấp khúc, xin nói rõ như sau:
Tuyến cầu vồng là gì? Ta ném đi một hòn đá, đó là một loại lực ly tâm, sức hút của tâm quả đất hút vào hòn đá ấy, đó là loại lực hướng tâm. Lực ly tâm của đá không vượt lực hút của quả đất, nên phải rơi xuống. Tuyến đường mà hòn đá từ chỗ bay đến chỗ rơi gọi là tuyến cầu vồng. Tuyến đi của nước nhỏ với nước lớn là như vậy. Ví dụ nhân dân Ấn Độ muốn độc lập, đó là lực ly tâm của nước Anh, nước Anh dùng sức mạnh trấn áp họ, họ không chống trả phá được sự trấn áp của nước Anh, cũng giống như hòn đá ném ra không thoát khỏi sức hút của tâm quả đất nên rơi xuống
Tuyến đi của quả đất xoay quanh mặt trời là tuyến bầu dục là do lực ly tâm và lực hướng tâm kết hợp tạo thành. Đứng về số học mà nói, cự ly từ một điểm đến hai điểm xấp xỉ bằng nhau, quỹ đạo của điểm ấy gọi là bầu dục
Ví dụ trong mua bán, khách mua trả tiền, chủ tiệm giao hàng trị giá của hai thứ đó ngang nhau, coi như là một vật. Vật khách mau ném ra qua tay chủ tiệm trở về vị trí cũ; đứng về phía chủ tiệm mà xét, chủ tiệm ném ra qua tay khách trở thành hình bầu dục, người bán người mua rất hài lòng. Khách mua có tiền chưa hẳn định đến tiệm ấy mua, đó là sức ly tâm. Nhưng hàng hóa  ở tiệm ấy lại hấp dẫn khách nên có sức hút, chủ tiệm có hàng chưa hẳn định bán cho ông khách ấy. Đó là sức ly tâm nưhng tiền trong túi khách lại hấp dẫn chủ tiệm nên có sức hút. Do sức đẩy và sức hút kết hợp, khách mua trả tiền, chủ tiệm giao hàng, hai người thỏa mãn, mua bán xong, đó là trạng thái hình bầu dục; như việc hôn nhân tự do, người con gái nọ không định lấy người con trai kia, nhưng do tình yêu nồng cháy của người con trai mà hấp dẫn người con gái; người con trai nọ không định cưới cô gái kia làm vợ, nhưng cô yêu tha thiết mà hấp dẫn anh ta, sức đẩy sức hút cân bằng. Đó cũng ở trạng thái hình bầu dục
Quả đất xoay quanh mặt trời, sức đẩy sức hút cân bằng trở thành trạng thái hình bầu dục nên vũ trụ muôn đời như mới. Mọi tổ chức xã hội phải tuân theo trạng thái ấy mới không mục nát. Chế độ hôn nhân cũ nước ta, do bố mẹ chủ trì mà thành vợ chồng, suốt đời gắn bó, thiếu lực đẩy nên cả nam lẫn nữ đều đau khổ. Nếu có sức đẩy mà không có sức hút cũng không được. Thời xa xưa nam nữ tạp giao. Con cái chỉ biết mẹ mà không biết bố, đó là thiếu sức hút. Các đoàn thể nước ta nếu rã rời như cát cũng là do thiếu sức hút. Các nhà chính trị định ra chế độ cũng là đem lực ly tâm và hướng tâm bố trí cân bằng
 Tuyến gấp khúc là gì? Cự ly một điểm đến hai điểm hằng đẳng số sai nhau, quỹ đạo của điểm này gọi là điểm gấp khúc, hình dáng nó như hai cánh cung chĩa ngược nhau. Hai học thuyết khác nhau, hai việc làm khác nhau đi theo hướng ngược nhau thì có thể gọi là đi theo quỹ đạo tuyến gấp khúc. Ví dụ hai thuyết tính thiện, tính ác chống nhau, hai bên đều giữ ý kiến của mình nên thành lý lẽ, càng nói càng tinh vi, cách nhau càng xa như tuyến gấp khúc càng kéo càng dài. Cũng như tuyến nhập thế và xuất thế, hai thuyết đi ngược chiều nhau, chủ nghĩa lợi mình, lợi người đi ngược nhau, như vậy đều thuộc tuyến gấp khúc
Ta xem xét các loại lực tuyến, thấy có bốn tuyến có thể giữ cho mình và người bình an vô sự:
1/ Tuyến không giao nhau, mục đích giữa ta với người khác nhau, đường đi khác nhau, mỗi người theo một mục đích, không có quan hệ với nhau. Tuyến song song không bao giờ giao nhau, có lúc không song song nhưng không tiếp xúc, không phát sinh quan hệ
2/ Tuyến hợp lực, ta với người có quyền lợi giống nhau, cùng đi theo một mục đích như ví dụ trên đã nói người Ngô Việt cùng đi trên một chiếc thuyền thì giúp nhau
3/ Hình tròn: Các sự vật trong vũ trụ được sắp xếp trật tự, mỗi việc đều trong phạm vi nhất định, giữa ta và người có giới hạn nhất định, mỗi người đều đứng trong phạm vi của mình không xâm phạm lẫn nhau, như vậy tự nhiên yên ổn với nhau
4/ Hình bầu dục: Việc gì quyền lợi nghĩa vụ bằng nhau đều thuộc loại này. Trong 4 loại tuyến này, loại thứ nhất và thứ ba là lợi mình mà không hại người hoặc lợi người mà không hại mình. Loại thứ hai, thứ tư là mình và người đều có lợi. Khi gặp việc, ta quan sát tuyến đi giữa mình và người, nếu đi theo bốn tuyến nói trên sẽ không xẩy ra xung đột
Trong sách triết học cổ Trung Quốc chất chứa nguyên lý có thể dẫn chứng, sau đó kết luận: lực của vũ trụ đầy ăm ắp, ở khắp thế giới, không sinh không diệt, không tăng không giảm, chúng ta sống giữa nó, có lúc phát hiện ra quy luật của nó. Ví dụ nhìn hoa quả rơi xuống đất thì phát sinh ra sức hút, nhìn nắp rung động thì phát sinh ra hơi nước; nhìn tác dụng của đá nam châm thì phát sinh ra kim chỉ nam; nhìn con ếch chết cử động thì phát sinh ra điện khí. Các loại phát sinh đều cùng nguồn gốc. Hoa quả rơi xuống đất là lực hút vào trong, nắp vung rung động là lực đẩy ra ngoài; từ khí, điện khí là hai tác dụng vừa đẩy vừa hút. Đác – Uyn xem lực của vũ trụ phát triển về trước như nước chảy ở sông có thể thích ứng với hoàn cảnh mà tìm ra thuyết tiến hóa. Lại thấy trong thuyết tiến hóa có tác dụng thu hút nhưng không lớn nên nói là có tính di truyền. Các loại khoa học, các loại triết học đều từ những lực của vũ trụ mà ra. Ví dụ có người ở trên cây hái quả, có người ở dưới cây hái hoa, laoị có người ở bên cây hai lá, vật tuy khác nhau nhưng đều hái ở một cây mà ra. Học thuyết trăm nhà quy về một mối, học thuyết đông tây có thể thông nhau. Đó là thu hoạch lớn nhất của tôi vào năm Dân Quốc thứ 9, tư tưởng tôi cũng chuyển biến từ chống đến xây


TÍNH LINH VÀ ĐIỆN TỪ

Một đối tượng nghiên cứu khác của Tôn Ngô là vấn đề “Tính linh và điện từ”. Vấn đề này là sự tiếp tục nghiên cứu của “Tâm lý và lực học”, là sự phát triển cao nhất của ông. Từ “Thuyết tính ác” ông mạnh dạn nêu lên thuyết “Mặt dày tâm đen tôi”, nhưng vẫn không ngừng tiếp tục nghiên cứu “Thuyết tính người”. Trong quá trình nghiên cứu, ông không chỉ phủ nhận “Thuyết tính ác” và cũng phủ nhận thuyết “Thiện ác lẫn lộn”, thuyết “tính có thiện ác” và thuyết “ba mặt của tính tình”. Sau này, ông phát hiện  tính con người không gọi là thiện, không gọi là ác mà nó có một “lực”, “lực” này có thể đẩy và hút, giống như hiện tượng của vật lý, do đó ra đời cuốn sách “Tâm lý và lực học”
Về sau, ông lại sáng tạo ra một giả thuyết: Tính linh của người do điện từ quả đất chuyển đến. Giả thuyết này nếu được chứng minh đầy đủ thì sẽ có cuộc tranh luận giữa khoa học và huyền học, tranh luận giữa duy vật và duy tâm, đẻ ra nhiều chuyện. Nhưng do trình độ học vấn và tuổi tác của ông hạn chế, không thể đem giả thuyết này chứng minh đầy đủ, ông chỉ có thể đem những điều mình suy nghĩ viết thành một bài “Tính linh và điện từ” để các học giả sau này có thể bác bỏ hoặc công nhận
Ông cho rằng vật chất không bị tiêu diệt, năng lực không bị tiêu diệt, đó là định luật của khoa học. Theo định luật này người ta khi chết đi, cơ thể rữa thành bùn đất, còn tính linh hóa thành điện từ. Nếu coi đó là tính linh của cơ thể, sinh ra tự có, chết đi chạy mất, liên hệ với thuyết vật chất không bị tiêu diệt, năng lực không bị tiêu diệt thì có thể thông được. Đó là duyên cớ có người tu luyện thành tiên thành phật, hoặc có người tu luyện để điện từ ngưng tụ không tan. Hoặc có người nói “Oan hồn không tan” tức là lòng thù hận giữ điện tích tụ, đến khi oán thù đã báo, lòng hận thù mất đi, điện từ không tích tụ thì hồn ma sẽ mất.
Nếu theo giả thuyết “Tính linh do điện từ chuyển biến mà thành”, thì vấn đề này giải đáp được. Người ta chết đi, vật chất trên người trả cho quả đất, tính linh hóa thành điện từ thì linh hồn coi như bị tiêu diệt, nhưng cơ thể con người tuy chết, vật chất còn tồn tại, điện từ thì có thể nói linh hồn vẫn tồn tại. Trang Tử nói: “Trời đất sinh cùng thời với ta, vạn vật với ta là một” có lẽ theo cái lý nêu trên
Người theo đạo phật rất coi trọng 4 chữ “Liễu liễu thường tri”. Người ta lúc ngồi tĩnh tâm thì lòng dạ minh mẫn, đến khi gặp việc bề bộn thì lòng dạ không còn minh mẫn nữa. Người có học lực sâu tuy gặp việc bề bộn, lòng dạ vẫn minh mẫn, nhưng đêm ngủ thì mê mẫn. Người có học lực sâu hơn khi ngủ vẫn minh mẫn đó gọi là thức ngủ như một. Người có học lực rất sâu, chết rồi vẫn minh mẫn, đó gọi là “Sống chết như một”, chết rồi vẫn còn minh mẫn tức là nói linh hồn tồn tại lâu dài
Kinh Lăng Nghiêm nói: “Chữ Vạn từ não đức Như Lai toát ra hào quang quý báu, tia nhấp nháy có muôn vàn màu sắc, tỏa khắp thập phương, phật truyền thế giới, trong chốc lát. Hào quang quý báu ấy là điện quang. A Nạn nói về Phật rằng: “Ta thấy Như Lai có 32 tướng đẹp đẽ tuyệt trần, hình thể lấp lánh như ngọc lưu ly, thường ngồi tư duy, tướng ấy không đẻ ra lòng dục ái. Sao vậy? Dục khí vẩn đục, tập chất giao thông, huyết dịch hỗn loạn, không thể tĩnh tâm minh mẫn được, kinh quang không thể ngưng tụ thoát ra được. Đó là nói  Thích Ca tu dưỡng rất công phu, đã đem huyết nhục biến thành chất ngưng tụ của điện từ, nên phát ra hào quang quý báu, tỏa khắp thế giới. Người theo đạo phật có thuyết mắt thông thiên, bây giờ phát minh vô tuyến điện đã có thể chứng minh cho cách nói này. Bản thân Thích Ca là một đài vô tuyến điện, tương lai điện học phát triển lên có thể chứng minh lời trong kinh phật không phải là hư vô, cũng có thể chứng minh giả thuyết “Tính linh do điện từ chuyển biến mà thành
Lão Tử khi nói thường lấy nước làm ví dụ, Phật cũng thường lấy nước làm ví dụ. Chúng ta không lấy khôgn khí làm ví dụ, nhưng cho rằng không khí không diệt, không bẩn không sạch, không tăng không giảm, không cổ không kim, không biên giới, không trong ngoài, các tố chất ấy không khí đều có đủ. Thêm một bước lấy điện từ trung hòa làm ví dụ lại càng chính xác. Nếu nói giả thuyết “Tính linh của người do điện từ chuyên biến mà thành” mà đọc sách đạo Phật, đạo Lão cũng có thể giải thích được
Con người thường cho mình cao hơn vạn vật, đó chẳng qua chỉ là cách đề cao con người. Thực ra người và vật đều do quả đất sinh ra, mọi nguyên tố trên cơ thể đều là vật chất của quả đất. Từ quả đất mà nhìn nhận thì người và vật đâu có khác nhau, giống như bố mẹ sinh ra hai người con, con trưởng là “Người”, con thứ hai là Vật, chẳng qua con trưởng thông minh, con thứ hai ốm đau câm điếc mà thôi. Vật chất ở người, vật chất ở quả đất đều do điện từ cấu thành, người có linh hồn, quả đất cũng có linh hồn, linh hồn của quả đất là điện từ. Vật chất của quả đất biến thành thực vật, đồng thời điện từ của quả đất cũng biến thành bộ máy nuôi thực vật. Con người ăn thực vật, vật chất biến thành râu tóc, xương thịt mỗi lần biến chuyển càng cao hơn, điện từ của quả đất biến thành bộ máy nuôi thực vật, biến thành tính linh của con người, càng biến càng cao vậy. Tuy qua mấy lần biến chuyển, tính chất vốn có vẫn tồn tại, cho nên nguyên tố của con người với nguyên tố của quả đất giống nhau, cảm ứng tâm lý địa từ giống nhau. Nhưng qua mấy lần biến chuyển, râu tóc thịt xương của người khác với bùn đất cát sỏi của quả đất, tính linh người khác với điện từ của quả đất. Tại sao vậy? Vì quả đất là vật chết, con người là vật sống, cho nên vận dụng quy luật của lực học để quan sát sự việc con người, phải thích hợp chứ không cứng nhắc được
Lão Tử nói: “Các vật hỗn thành, trước tiên trời đất làm chủ, đứng riêng không đổi, xoay quanh không dừng, coi là mẹ của thiên hạ, ta không biết tên nó nên gọi là Đạo, nói mạnh hơn là Đại”. “Đạo” mà Lão Tử nói tức là “Chân như” mà Thích Ca nói: “Núi sông đất đai, mặt trăng mặt trời tinh tú, thân khí trong ngoài đều do chân như không giữ tính của nó, biến hiện mà ra”. Cách nói ấy giống với Lão tử. Chân như không giữ được đặc tính của nó, biến thành điện từ trung hòa, từ đó biến thành khí thể, bay cuộn trong thái không, qua mấy lần chuyển biến mà hình thành núi sông đất nước, mặt trăng mặt trời, các vì sao. Từ đó sinh thực vật, sinh động vật, sinh loài người. Mà Phật nói trạng thái “A lại gia thức”. Tương tự nói trạng thái điện từ trung hòa, khi là A lại gia thức của người, do cùng là vật chất, ở quả đất là bùn đất cát sỏi, ở người là râu tóc xương thịt. Người bây giờ nói tính linh của người không giống với sự hồi chuyển của điện từ là do thiếu kiến thức khoa học, thấy râu tóc xương thịt không giống với bùn đất cát sỏi. Điện từ trung hòa là biển hiện sơ khai của chân như, chân như không nhìn thấy được. Chúng ta đọc sách của Lão và Phật, đứng ở điện từ trung hòa thì thấy “Đạo” và “Chân như” phảng phất ở trạng thái như vậy
Chúng ta giả định “Tính linh điện từ do điện chuyển biến mà đến”. Trong nhiều thuyết pháp của Phật và Tống nho thương nói: “Cá ở dưới nước, nước ở ngoài cũng như nước ở trong bụng cá chép vậy”. Nhà Nho đời Minh nói: “Khắp trời đất đều tà tâm”. Các cách nói ấy không cần nhiều lời giải thích. Sách Trung Dung nói: “Mừng giận buồn vui chưa phát ra gọi là Trung”. Đại Tổ nói: “Lúc nào không nghĩ thiện, không nghĩ ác, lúc đó bộ mặt lộ rõ nhất”. Trang Tử nói: “Tâm không vui buồn, các đức đến vậy, một khi không động, cái tĩnh đến vậy, đó đều là hiện tượng A lại gia thức, đó cũng là hiện tượng trung hòa điện từ. Phát động trung hòa điện từ lên, gây tác dụng đẩy hút nhau thì sự việc cũng ào ào nổi dậy. Cho nên muốn nghiên cứu các sự biến của người đời, đầu tiên phải tọa ra một ước đoán tính linh của người, từ điện chuyển biến mà đến, nhưng nghiên cứu điện từ không thoát ly được lực học, do đó phải tạo ra ước đoán mới “Tâm lý theo quy luật lực học mà biến hóa”. Các ước đoán đó, các sự vật mới có quỹ đạo mà theo. Các học thuyết khác nhau trên thế giới mới có thể hội quy thành một


PHÁT MINH RA
“TUYẾN QUAY VỀ GỐC”

          Ta còn nhớ điều ông phát minh ra: “Sự biến đổi của tâm lý là đi theo luật của lực học”, cho nên ông muốn tuân theo định luật đó để tìm ra quỹ đạo sự diễn biến của học thuật mà quỹ đạo phải theo. Nếu biết được học thuật trước đây diễn biến như thế nào thì có thể đoán được tương lai học thuật sẽ phát triển theo con đường nào. Ông nói: Từ lúc khai thiên lập địa, loài người đi lại trên quả đất, mới biết rằng dù mình đi như thế nào đều bị sức hút của tâm quả đất chi phối. Tư tưởng của loài người tự cho rất được tự do, nếu đem học thuyết Niu - tơn khuyếch đại lên, ứng dụng vào tâm lý học thì biết rằng tư tưởng nào dù rất tự do đều phải có quỹ đạo đi theo. Mọi sự biến đổi trong đời người theo thói quên mà không quan sát, cũng như con người sống trước Niu - tơn không biết có sức hút của tâm quả đất. Vì vậy, ông có cách nhìn đặc biệt với xu thế học thuyết Trung Quốc với sự giao lưu học thuật của thế giới
Ông nói: Học thuật của nước ta trước kia có hai thời kỳ, thứ nhất là kẻ sỹ thời Chu, Tần; thứ hai là nhà Nho thời Triệu, Tống. Học thuật của hai thời kỳ này có tính sáng tạo. Năm đời Hán, Ngụy, Tống, Nam bắc triều, Tùy, Đường là kế thừa học thuật thời Chu Tần mà nghiên cứu sâu hơn; triều Nguyên là kế thừa học thuật thời Hán, Tống mà nghiên cứu sâu hơn; Triều Thanh là kế thừa học thuật của Trung Quốc độc lập phát triển; Triệu Tống là thời kỳ học thuật Trung Quốc dung hợp với học thuật Ấn Độ, kẻ sỹ thời Chu, Tần nói chung lấy Khổng Tử là người đại diện, ai không lấy Khổng Tử là người đại diện mới lấy Lão Tử là người đại diện. Các nhà Nho thời Triệu Tống nói chung lấy Chu Tử là người đại diện, nếu không lấy Chu Tử là người đại diện mới coi Trình Minh Đạo là người đại diện. Bây giờ đã bước sang thời kỳ thứ ba, thế giới giao lưu, bốn bể là anh em, thời kỳ mà học thuật Trung Quốc, Ấn Độ, Phương Tây dung hợp thì có thể tìm ra quỹ đạo tiến hóa của học thuật. Biết được do học thuật Trung Ấn dung hợp mà hình thành phương thức nào đó thfi cũng sẽ biết được do học thuật Trung-Ấn-Tây phương dung hợp tạo nên. Ta dùng cánh chim vỗ cánh bay lên không trung hoặc nhìn nước sông chảy ra biển, thì có thể nhìn thấy xu thế lớn của học thuật
Ông nói, cuốn sách Lão Tử là cương lĩnh chung của học phái thời Chu, Tần; sách các Chư Tử là tiểu đề mục. Chư Tử nêu lên một bộ phận trong cương lĩnh, phát huy thêm, chỉ có thể nói lả họ nghiên cứu rất tinh tế nhưng không ra phạm vi của Lão Tử. Chân lý vũ trụ là một cái có thật, ban đầu mờ mịt như một ngọn núi hoang cực lớn, không người khai phá. Về sau tình cờ có người nhặt được ở núi đó một vài của quý, mọi người thấy lạ mới rủ nhau lên núi tìm kiếm, có người được bạc, có người được đồng, sắt, thiếc. Tuy không giống nhau vẫn là có bắt được của quý; người làm sách Hà Đồ, Lạc Thư là tình cờ bắt được của quý; Chư tử thời Chu Tần là người lên núi khai thác của quý, Lão Tử là người được nhất trong bọn họ. Lão Tử đem chân lý vũ trụ, sự biến cổ kim dung hợp lại, tìm ra quy luật biến hóa quy luật biến hóa của nó, đặt tên là “Đạo”. Đạo là đường, tức là nói vạn vật trong vũ trụ không thể không đi theo con đường ấy. Đem quy luật ấy viết thành quyển sách đặt tên là “Đạo Đức Kinh”. Căn cứ vào sự biến từ trước, đoán được sự biến cố tương lai nên nói: “Giữ đạo xưa để chế ngự cái hiện có
Lão Tử hiểu rằng quỹ đạo của mọi sự vật có ở tâm nên Lão Tử nói “Đạo đức”. Khổng Tử sinh sau Lão Tử hiểu rõ lẽ này, dùng nó để dạy người nên Khổng Tử nói “Nhân”, Mạnh Tử nối tiếp Khổng Tử nên nói “Nhân” phải thêm chữ “Nghĩa”. Tuân Tử nối tiếp Mạnh Tử, chú trọng chữ “Lễ”. Hàn Phi học Tuân Tử thấy chữ Lễ chưa đủ khoanh con người lại nên nói: “Pháp thuật hình danh”. Những điều ấy theo thời phát triển, tự nhiên như vậy, người đời gọi “đạo đức” thành “pháp luật hình danh”, đầu tiên là Lão Tử nêu lên, nào có biết từ đạo đức đến nhân nghĩa, từ nhân nghĩa mới đến pháp luật hình danh. Người nói nhân nghĩa không có tội, người nói đạo đức không có tội không thể không kêu oan cho Lão Tử. Đạo đi mà thành đức, đức đi mà thành nhân, nhân đi mà thành nghĩa, nghĩa đi mà thành lễ, lễ đi mà thành hình, hình đi mà thành binh. Đạo đức đứng đầu, hình binh đứng cuối. Tôn tử nói binh, Hàn Phi nói hình nhưng gốc của nó đều từ Lão Tử. Ba pháp bảo của Lão Tử: một gọi là Từ, hai gọi là Kiệm, ba là không dám bước đi trước thiên hạ. Năm điều Ôn, Lương, Cung, Kiệm, Nhượng của Khổng Tử thì chữ Kiệm giống với Lão Tử, chữ Nhượng giống với không dám đi trước thiên hạ của Lão Tử, 3 chữ Ôn, Lượng, Cung là cụ thể hơn chữ Từ, đó đủ cho ta thấy các nhà Nho xuyên thông với Lão Tử. Kiêm Ái của Mặc Tử là Từ của Lão Tử, Tiết dùng của Mặc Tử là Kiệm của Lão Tử. Lão Tử nói về binh: “Không dám làm chủ mà làm khách, không dám tiến tấc mà lui thước”. Lại nói: “Giữ thì vững”, Mặc Tử nói: “Không công mà giỏi thủ” thì cũng giống như Lão Tử ở trên. Các nhà thuyết khách thời Chiến Quốc, Tô Tần được coi là đứng đầu. Sách ông đọc là Âm Phù Kinh, đó là sách của đạo sỹ gần giống với Lão Tử. Lão Tử nói: “Đạo của trời như trương cung vậy, người cao đè xuống, người dưới giơ lên”. Câu này của Lão Tử theo lập luận chữ “Bình”. Tô Tần làm tướng 6 nước, mỗi khi dùng câu “Thà làm đầu gà, không làm đuôi trâu” là muốn kích động lòng bất bình của 6 nước trong đó chứa đựng nguyên lý đạo trời trương cung hợp với cái lẽ tự nhiên, cho nên lời nói của Tô Tần mới mê hoặc được lòng người. Câu nói: “Dục thủ cô dữ” của Lão Tử được các nhà chính trị, các nhà quân sự đời sau tôn thờ. Dương Chu, Trang Tử, Liệt Tử, Quan Y là những người trực tiếp thừa kế học thuyết của Lão Tử. Chử Tử Chu Tần thường công kích nhau nhưng không công kích Lão Tử, chứng tỏ học thuyết của Lão Tử không xung khắc với Chư tử, tức là xuyên thông với nhau. Thời xuân thu chiến quốc, các nước tranh giành nhau, đồng thời trong giới học thuật cũng đẻ ra trăm nhà đua tiếng. Từ Tần về sau, thiên hạ thống nhất, học thuyết cũng là ý của vua, cũng thống nhất. Thời Tần chỉ có học thuyết pháp gia được tồn tại, các học thuyết khác bị bãi bỏ. Đầu nhà Hán, đổi sang theo Hoàng Lão, đến Hán Vũ Đế, chuyên theo học thuyết Khổng Tử, nhưng học thuyết Lão Tử vẫn còn rất mạnh, nên xuất hiện 2 dòng đạo Khổng, đạo Lão. Về sau đạo Phật truyền vào Trung Quốc ngày một hưng thịnh trở thành 3 dòng đạo trong cùng một khu vực, dựa nhau đẩy nhau, qua một thời gian dài tự nhiên có một xu thế hợp nhất, học thuyết Tống Nho theo xu thế ấy sinh ra
Muốn nói về học thuyết Tống Nho, trước tiên phải nghiên cứu sự giống và khác nhau của 3 đạo giáo. Sự giống khác nhau này người xưa đã nói nhiều, nhưng điểm quan trọng nhất là 3 đạo giáo phải “Quay về gốc”. Mạnh Tử nói “Gốc của thiên hạ là nước, gốc của nước là nhà, gốc của nhà là thân”. Nhưng quay về đến thân vẫn chưa dừng được nên ông lại nói: “Đứa bé không đứa nào không yêu mẹ, khi lớn lên không đứa nào không kính anh”. Ta thấy nhà Nho quay về gốc; quay đến đứa bé nhóc mới thôi. Sách của Lão Tử thường nói “Anh nhi”, anh nhi là đứa bé đẻ rơi xuống đất. Mạnh Tử nói đứa bé bế trên tay biết yêu kính là có trí thức rồi. Lão Tử quay về gốc, đi sâu hơn quay đứa bé mới đẻ ra rơi xuống đất chưa có dục vọng gì mới thôi
Lời của Lão Tử tuy vô tư vô dục nhưng còn có tâm, nên nói: “Tâm thánh nhân không thường có, lấy tâm trăm họ làm tâm mình”. Thích Ca coi tâm ấy là không có, không có người, không có ta, chỉ có Niết Bàn. Nhà Phật thường răn người: “Xem khuôn mặt trước khi bố mẹ sinh”, tức là nhìn thấu cái thai trong bụng mẹ, còn tiến bộ hơn “Anh nhi” của Lão Tử. Ba đạo giáo Nho, Phật, Lão đều trên một tuyến như hình vẽ:

Trước
Canh
Thiên hạ
Kỷ
Nước
Mậu
Nhà
Đinh
Thân (ta) lúc thành người
Bính
Bé bế trên tay (biết yêu kính)
Ất
Anh nhi (Vô tri vô dục)
Giáp
Trước khi bố mẹ sinh (Không người không ta)

Nhà Nho từ Canh quay về Đinh, lại từ Đinh quay về Bính. Lão Tử từ Đinh quay về Ất, nhà Phật từ Đinh quay về Giáp; Tôn Ngô gọi tuyến này là “Tuyến quay về gốc”. Từ đó ta có thể thấy sự giống nhau và khác nhau của ba đạo giáo. Nói họ giống nhau là học đều là tuyến quay về gốc đi vế phía sau; nói họ giống nhau thì nhà Nho đều quay đến điểm Bình là dừng, Lão Tử quay đến điểm Ất thì dừng, nhà Phật quay đến điểm Giáp mới dừng, đó là điểm họ khác nhau
Theo hình trên, hình như cảnh giới của Phật, chỉ có Lão Tử mới đến được, cảnh giới của Lão Tử chỉ có Khổng Tử mới đến được. Phật nói “Diệu thường”, Lão Tử cũng nói “Hậu mệnh là thường”, lại nói “Huyền chi lựu huyền, chúng diệu chi môn”. Cảnh giới diệu thường của Phật, Lão Tử không sao đến được. Phật chủ trương “Phá ngã chấp, phá pháp chấp”, Khổng Tử nói “Vô ý vô  tất vô cố vô ngã”, Phật gọi là ngã chấp pháp chấp, Khổng Tử không sao phá được? Ba đạo giáo cùng trên một tuyến, nhưng từng đạo đứng riêng, tôn chỉ của đạo giáo đều khác nhau. Phật muốn xuất thế, muốn đi tìm đến trước lúc bố mẹ sinh ra, đến hạt nhân của tâm cũng phải phá mới xuất thế được. Vì muốn xuất thế nên không nghiên cứu đến lễ nhạc hình chính của đời. Khổng Tử muốn trị thế nên hết sức lo việc đời, mọi sự phát sinh đều lấy ý niệm làm khởi điểm, mà ý niệm thuần túy nhất là đứa bé bế trên tay, nghiên cứu từ đứa bé bế trên tay lấy thành ý là tâm đắc nhất nên đề ra chính tâm tu thân, cho đến tề gia trị quốc bình thiên hạ. Tôn chỉ của đạo Khổng là trị thế cho nên không quan tâm đến Niết Bàn diệt độ. Lão Tử muốn thám sát bản nguyên của tạo hóa, nên bỏ tâm bỏ trí, vô tri vô dục, đi vào cõi hư, cõi tĩnh, lĩnh hội các lẽ hay là lặng yên không động, cảm thấy mà dần thông nên ý nghĩ đến đứa trẻ sơ sinh. Đi về phía sau là cách xuất thế, đi về phía trước là cách nhập thế. Ông nói: “Đa ngôn sở cùng, bất như thủ trung”. Chữ trung này chỉ là điểm Ất, là đứng ở giữa nhập thế và xuất thế
Mười hai bộ kinh tam tạng của Phật, các sách Thi Thư Lễ Nhạc Dịch Xuân Thu của Khổng Tử quả là rất nhiều. Lão Tử không muốn nói nhiều, chỉ giản đơn có 5000 chữ, lấy điểm Ất làm lập luận, chỉnh ẩn ý mà không nói rõ ra. Ông muốn đem nhập thế xuất thế xuyên thông thành một, tìm ra nguyên lý để người ta tự nghiên cứu mà không muốn nói nhiều. Nói xuất thế không ai nói giỏi hơn Phật, nói nhập thế không ai nói giỏi hơn Khổng Tử. Tóm lại Phật nói xuất thế, Khổng nói nhập thế, Lão muốn xuyên thông thành một, đó là chỗ  khác nhau giữa ba đạo
Tình người thường chán cũ thích mới. Thời Ngụy, Tấn nói suông lâu rồi cảm thấy chán, gặp lúc đạo Phật truyền vào Trung Quốc, càng truyền càng thịnh, về học thuật mở ra một thế giới mói, từ vua quan đến thứ dân đều hoan nghênh. Đến thời Đường, kinh phật phổ biến khắp nước, đền chùa mọc khắp nơi. Thiền Tông có phái Nam, Phái Bắc rất giỏi, đó là thời cực thịnh của đạo Phật giáo. Nhà Đường tự xưng là con cháu cảu Lão Tử, truy tôn Lão Tử là Huyền nguyên hoàng đế nên đạo Lão cũng rất thịnh. Đạo Khổng được tôn sùng qua mấy triều đại, cũng rất thịnh hành, 3 đạo này nương dựa nhau, đẩy nhau, tự nhiên có xu thế hợp nhất. Các nhà nho thời ấy, nhiều người nghiên cứu học thuyết của Phật, Lão, họ làm việc hợp nhất ba đạo giáo nhưng chưa làm được, cho đến thời Tống Nho, nhất là Trình Minh Đạo mới hoàn thành công việc này
Trước Trình Minh Đạo, tuy có Tôn Minh Phú, Hồ An Định, Thạch Thủ Đạo, Chu Liên Khê là những nhà Nho đi tiên phong mở đường ở thời Tống nhưng chỉ là thời kì manh nha; đến Minh Đạo mới thu hút được tinh hoa của ba đạo giáo, lấy tư tưởng Lão Tử làm chủ đạo, sắp xếp thành hệ thống mà ta gọi là Tống học. Về sau học phái Trình, Chu, Lục, Vương đều là từ Minh Đạo chia ngành ra. Minh Đạo là ông tổ của Tống học, học thuyết của ông dáng dấp như các nhà nho tho Lão Tử thời Triệu Tống. Tống Nho lấy học thuyết của Phật trị Tâm, học thuyết của Khổng trị Thế, ba đạo giáo cùng theo lẽ thuận mà đi, đem trị tâm trị thế gộp thành một là  đi vào con đường của Lão Tử. Do đó ta thấy không chỉ học thuyết của Lão Tử mà làm thông suốt các Nhà Nho thời Tống Minh. Tóm lại, nói lại học thuyết của Lão Tử xuyên thông các học thuật toàn Trung Quốc cũng không sai. Mặc dù giới Tống Nho nói rằng học phái của họ là theo Khổng Tử, không liên quan đến Phật Lão, thực tế do dung hợp ba đạo giáo mà thành, học thuyết của họ còn đó, che dấu sao được? Thực ra dung hợp ba đạo giáo thành một, đó là thành công lớn nhất của học thuật. Họ có công trồng cây, đáng phải tự hào, lại phủ nhận, àm nhận là dòng phái của Khổng Tử, khác nào nhận nhầm cửa ngõ. Thực ra theo xu thế tiến hóa, 3 đạo Phật, Nho, Lão đến thời Tống tự nhiên hợp lại, các nhà Tống Nho làm theo xu thế ấy như người ta cầm mái chèo thuyền trên sông, các nhà Tống Nho muốn đi ngược dòng lên thượng nguồn nhưng ngược lại bị đẩy trôi ra biển. Giả dụ hai ông Trình, Chu định hợp nhất ba đạo giáo là họ nhìn thấy xu thế tự nhiên; đằng này họ cực lực phản đối ba đạo giáo hợp nhất, nhưng thực tế là hoàn thành hợp nhất, thế mới biết xu thế tự nhiên là vĩ đại. Học thuyết Tống Nho không bị lu mờ là do đã hoàn thành việc hợp nhất 3 đạo giáo; họ như người có bệnh, bên trong là tam giáo hợp nhất, ngoài mặt chỉ nói đến đích học phái Khổng Tử, khác nào kẻ treo đầu dê bán thịt chó vậy
Học thuyết Tống Nho vốn có tinh thần cách mạng. Họ lập lại tất cả cách nói của Hán Nho. Sáng lập ra thuyết mới là có phá có xây. Họ không dám nói là mình sáng lập ra học thuyết mới, vẫn nói dựa vào Khổng Tử, giả lả phục cổ thực là cách tân. Tôn giáo mới của Mi-tin-lôt, văn nghệ phục hưng Châu Âu đều đi con đường này. Học thuyết Tống Nho có tính sáng tạo, người tin theo đông, người phản đối không ít, hiện tượng đó thường thấy khi học thuyết mới ra đời. Giới Tống Nho có nhược điểm khá lớn, đi sâu vào chi tiết nên sinh rắc rối, bộ lộ 2 điểm:
1/ Về con người Khổng Tử, Trình Tử và Chu Tử nói không đúng
2/ Cũng là người tôn sùng Khổng Tử, Trình Tử và Chu Tử nói là đúng, người khác nói không đúng
Hợp hai điểm này lại, mới bày ra thuyết “đạo đức” của Hàn Dũ. Những người như Trình, Chu rất sợ học học sàu này nhiễm phải thói xấu ấy. Từ Tống, Nguyên, Minh, Thanh cho đến bây giờ còn tranh luận mãi không thôi. Nguồn gốc căn bệnh đó là thiếu chữ “Lượng”. Giới Tống Nho đều đủ tài đức duy thiếu chữ “Lượng”. Bọn họ trên lĩnh vực chính trị thế này, ở lĩnh vực học thuật cũng như vậy. Quân tử bài xích quân tử nên đẻ ra tranh cãi về Lạc Thục, tín đồ của Khổng Tử bài xích tín đồ Khổng Tử nên đẻ ra tranh cãi về Chu Lục
Nếu không có cái nhìn hạn hẹp, mở rộng lượng ra, vỗ cánh bay cao mới là theo xu thế tự nhiên. Khổng Tử là người thuật việc mà không làm, thuật chuyện Nghiêu Vũ, viết lời văn võ, dung hợp các thuyết trở thành một phái. Trong sách Lão Tử thường trích dẫn lời cổ, ông cũng là người thuật việc mà không hay làm, học thuyết của ông cũng là dung hợp các học thuyết trở thành một phái. Ấn độ có 96 đạo, qua Thích Ca nghiên cứu, sau đó lập ra thuyết mới, cũng là dung hợp các thuyết, hiện tượng đó là hiện tượng phân ra trong học thuật
Một học thuyết khi trở thành một phái, phái đó lại chia làm nhiều phái nhỏ. Hàn Phi nói: “Nho chia 8, Mặc chia 3” là tuân theo quỹ đạo ấy. Hán nho nghiên cứu các kinh để lại, lập nên hán học, sau đó lại phân ra nhiều phái. Học phái của Lão Tử cũng phân ra nhiều phái. Phật học Ấn độ chia ra nhiều phái, truyền vào Trung Quốc lại phân ra mấy phái. Đơn cử thuyết Phật tự thiền tông của Tống nho nêu lên, truyền đến 5 ông tổ lại chia ra bắc nam hai phái. Phái bắc Thần Tú, phái nam Tuệ Năng. Tuệ Năng truyền đến 6 ông tổ, bọn họ lại chia làm 5 phái: Minh Đạo sáng lập ra phái lý học, đến Trình (Y Xuyên) Chu và Lục lại phân ra 2 phái. Học trò của Y Xuyên lại chia ra nhiều phái, học trò của Chu Tử cũng chia ra nhiều phái, học trò Lục Vương cũng chia ra nhiều phái. Hiện tượng đó là hợp mà phân trên học thuật
Chân lý vũ trụ là hỗn nhiên, trí thức của nhân loại là nông cạn, không thể nhìn thấy hết được, phải phân rồi hợp, hợp rồi phân để nghiên cứu, mới nghiên cứu ra chân lý của vũ trụ. Hễ  khi nào bung ra nhiều học thuyết, sẽ có người xuyên thông quy hợp lại, đó là việc làm phân đến hợp. Sau khi quy hợp lại mọi người lại chia ra nghiên cứu, đó là việc làm từ hợp đến phân, ai cũng muốn tìm ra chân lý, nhưng còn lệ thuộc vào kiến giải chủ quan của mình. Dù phân mà hợp, dù hợp mà phân, về học thuật mà nói là có công. Chỉ có tầm nhìn trong cửa ngõ thống nhất một đạo là không thể được
Chúng ta đang ở thời đại học thuyết phương tây truyền vào Trung Quốc, xung đột với học thuyết vốn có từ trước, đương là thời đại nhan nhản học thuyết, chúng ta nên đem học thuyết đông tây dung hợp xuyên thông, làm công việc từ phân đến hợp, có như vậy mới phù hợp với xu thế từ phân đến hợp. Sau khi đã dung hợp xuyên thông, lại đưa ra nghiên cứu, làm công việc từ hợp đến phân
Nhưng muốn làm được việc dung hợp văn hóa đông tây, phải phân chủ khách, không thể đem văn hóa đông tây nhào thành một cục, lung tung lộn xộn, làm ảnh hưởng đến tư tưởng và hành động của chúng ta, chẳng có gì thích hợp, đó là hiện tượng hỗn loạn mấy năm gần đây. Cần lấy văn hóa dân tộc đã ăn sâu vào lòng người mấy nghìn năm qua làm trọng tâm, rút cái hay của người bổ sung cho cái thiếu của ta, hoặc thu hút tinh hoa của người bổ sung cho sức sống của mình. Xưa kia có truyện: Nước Lỗ có chàng trai sống độc thân, hàng xóm có người đàn bà góa sống độc thân. Đêm mưa nhà đổ, người đàn bà sang xin ở nhờ, gã đàn ông đóng cửa không cho vào, người đàn bà nói: “Anh không học Liễu Hạ Huệ sao?”, gã đàn ông nói: “Liễu Hạ Huệ thì được còn ta lại không được, đem cái không được của ta học cái được của Liễu Hạ Huệ”. Khổng Tử nghe được chuyện này thì khen rằng: “Người thích học Liễu Hạ Huệ không ai bằng gã đàn ông nước Lỗ!”. Triết học nước ta do người xưa sáng lập, bỏ ngoại mạo lấy tinh thần, đó là đặc sắc lớn nhất của giới học thuật nước ta, họa sỹ, nhà viết sách đều phải như vậy, trên tinh thần đó ta tiếp thu văn hóa phương Tây chỉ có lợi không có hại
Phật học Ấn Độ truyền vào Trung Quốc, chúng ta ra sức nghiên cứu, sửa chỉnh hoặc phát huy nên có tông phái Thiên Thai, Hoa Nghiên, Tỉnh Thổ trở thành văn hóa Trung Quốc nên được nhiều người hoan nghênh, trở thành đạo giáo rất thình hành; Chỉ thiền tông mà tông phái chỉ ở Ấn Độ, nên có cũng như không. Chỉ có tông phái Duy Thức mang màu sắc Ấn Độ quá đậm từ đời Đường đến nay coi như thất truyền. Từ đó ta thấy học thuyết Ấn Độ truyền vào Trung Quốc, càng Trung Quốc hóa càng thịnh hành, càng màu sắc Ấn Độ càng không thịnh hành thậm chí tiêu vong. Từ nay về sau, chúng ta ứng dụng văn hóa phương Tây như ứng dụng văn hóa Ấn Độ, khiến nó trở thành Trung Quốc hóa, giống như sao tẩm bào chế dược liệu, bỏ đi chất độc, chỉ còn lại chất hữu ích là được. Bước thứ nhất, dùng phương pháp của Lão Tử, cái gì phù hợp với xu thế tự nhiên thì dung nạp, cái gì không hợp thì bỏ đi; bước thứ hai dùng phương pháp của Khổng Tử, trước tiên việc gì cũng qua lương tâm phán xét, vào tâm mình mà yên thì sau đó mới truyền ra. Nếu biết cách dung nạp như vậy, văn hóa đông tây có thể dung hợp, con đường chúng ta đi là theo nguyên tắc này
Người phương Tây dùng cách ngửa lên cúi xuống để tìm ra quy luật tự nhiên của vũ trụ, nên đẻ ra các môn lý học, hóa học. Người Trung Quốc cổ xưa cũng dùng cách ngửa lên cúi xuống tìm ra quy luật tự nhiên của vũ trụ mà định ra các chế độ của đất nước, một bên tìm ra quy luật tự nhiên dùng vào sự vật, một bên dùng vào việc người, văn hóa hai bên tất có sự thông nhau
Người Trung Quốc xưa định chế độ, nhiều chổ tưởng như chẳng có lý lẽ gì, mà lại rất có lý lẽ như nói: cha hiền con hiếu, anh nhường em kính, đó là nói người trên thì nhân từ, người dưới thì tôn kính, giống như luật cảm ứng của điện từ, quyền lợi và nghĩa vụ của mỗi người đều có ở trong ấy, tạo nên mối thích thú giữa người với người. Người phương Tây vạch ra nhiều giới hạn trong mối quan hệ giữa người với người, quyền lợi nghĩa vụ của bố con, vợ chồng, đều theo phương thức thẩm kế để tính toán, quyền lợi nghĩa vụ rất rạch ròi nhưng tình cảm hứng thú với nhau giảm đi nhiều. Luân lý phương Tây nếu được cắm dòng điện từ vào mới xua tan đi không khí lạnh lẽo. Nhưng làm thế không tránh khỏi hồ đồ, vì còn phải xem cách tổ chức gia đình của họ. Hiểu như vậy, văn hóa Đông Tây sẽ dung hợp được. Nghiên cứu học vấn cũng như đào hầm mỏ, người Trung Quốc, người Ấn Độ, người phương Tây, mỗi người đạo một hố và đào về phía trước. Hố của người Trung Quốc thông với hố của người Ấn Độ trước, bây giờ đang chạm với hố của người phương Tây. Chân lý vũ trụ là một cái gì hỗn nhiên, người Trung Quốc, người Ấn Độ, người phương Tây đều nghiên cứu, từ việc của người nghiên cứu đi, hoặc từ vật lý nghiên cứu đi, chia thành mấy phái, các phái phân ra rồi lại hợp lại, hợp rồi phân. Theo xu thế hiện nay thì ba học thuyết Trung Quốc, Ấn Độ, phương Tây nên được dung hợp xuyên thông, học thuyết về vật lý nên được dung hợp xuyên thông. Chúng ta sinh ở thời đại này cần đi theo trào lưu, làm công việc dung hợp, sau khi dung hợp không ngại chia ra nghiên cứu cứ phân rồi hợp, hợp rồi lại phân qua mấy lần như thế mới đem cái hỗn nhiên. Xung đột là triệu chứng của dung hợp. Không nói xung đột là không nói dung hợp; ví dụ mấy cục bùn đặt ở trên mâm, không cho chạm nhau, làm gì có xung đột. Mấy cục bùn đứng riêng thì làm gì trở thành một cục được, nếu đem nó đặt vào một chỗ, nắm lại thành từng viên. Bây giờ thế giới cạnh tranh kịch liệt, giống như thời đại thất hùng thời chiến quốc. Học thuyết phương Tây truyền vào Trung Quốc xung đột với học thuyết cũ như thời đại nam bắc triều, Tùy Đường, Phật Giáo được truyền vào nhiều người tỏ ra bi quan với tình hình xung đột ấy thế mà không biết đó là lúc mấy cục bùn đang được vo viên lại, là động cơ đưa thế giới đến đại đồng, là động cơ dung hợp học vấn Đông Tây. Điều khác nhau là, sau khi Tần Thủy Hoàng thống nhất các nước lại, chỉ có một ông vua ngự ở trên cao, tương lai Thế giới Đại Đồng sẽ biến quân chủ thành dân chủ, Lý học của Tống Nho, tuy dung hợp các thuyết khác, nhưng để thực hành học thuyết ấy là dựa vào uy lực của vua, bắt nhân dân phải theo. Giờ dung hợp các học thuyết Trung Quốc, Ấn Độ, phương Tây là kết quả tự do nghiên cứu cảu các học giả không cưỡng bức người ta theo, các hiện tượng trên thế giới, trên học thuật điều là xu thế tự nhiên, sức người không chống lại được như nước chảy ra biển, muốn chống lại chỉ uổng công vô ích, làm theo xu thế ấy mới không đi ngược lại trào lưu
Nhưng xung đột giữa văn hóa Trung Quốc và phương Tây, căn bệnh do phương Tây gây ra. ví dụ: người phương Tây lấy “Cái tôi” làm khởi điểm, lấy chữ “thân mình” làm khởi điểm để xử lý việc xã hội, việc nước. Các nhà nho Trung Quốc nói trị quốc bình thiên hạ. Bắt đầu từ chính tâm thành ý, lấy chữ “tâm” làm khởi điểm, hai bên đều muốn bồi dưỡng khởi điểm tốt lên, cho nên người phương Tây thấy ai đó vô công rỗi nghề thì bảo họ làm việc, bồi dưỡng thân thể tốt lên. Người Trung Quốc thấy kẻ vô công rỗi nghề thì bảo họ đọc sách để bồi dưỡng cái tâm tốt lên. Người phương Tây muốn bồi dưỡng bản thân mình, người Trung Quốc muốn bồi dưỡng tâm mình; người phương Tây dạy chú trọng bốn chữ “Có ích bản thân”, người Trung Quốc dặn người chú trọng bốn chữ “Hỏi tâm hổ thẹn”. Smith đề xướng tự do cạnh tranh, Đác – uyn đề xướng cường quyền cạnh tranh, người phương tây để ủng hộ vì theo học thuyết “Có ích bản thân”. Các thánh hiền Trung Quốc không có loại học thuyết này, vì nêu nó lên sẽ lợi mình hại người, hỏi tâm có thẹn. Chúng ta tìm trong Tứ thư Ngũ kinh, Bách gia chư tử, rất khó tìm thấy học thuyết  giống như Smith, Đac – uyn. Chỉ trong sách của Trang Tử lúc bàn về trộm cướp có nói gần như thế, nhưng người Trung Quốc rất căm ghét chủ trương này. Học thuyết của Khổng Tử “Muốn tu thân mình, trước tiên phải chính tâm mình, muốn chính tâm mình, trước tiên phải thành thật với ý mình”. Chữ “Thân” của Khổng Tử đi vào phía trong hai vòng tìm ra chữ “Ý”, lấy thành ý làm khởi điểm rồi phát triển ra ngoài. Giống như xây nhà vậy, gạt hết lớp bùn đi, tìm đến đất mới xây móng. Từ tu thân đến trị quốc bình thiên hạ. Xã hội tạo nên là “Lấy thiên hạ làm một nhà, lấy Trung Quốc làm một người”; người với ta không xung đột, đó là chỗ tinh hoa nhất của học thuyết Trung Quốc. Người phương Tây tự do cạnh tranh, gây mồng mống thế giới đại chiến, người chết mấy người vạn; sau đại chiến vẫn không giải quyết được, lại phải có chiến tranh thế giới thứ hai, về kinh tế tạo thành chủ nghĩa tư bản, gieo mầm cho cách mạng xã hội, kết cục tương lai không còn biết đổ bao nhiêu máu nữa
Chúng ta xem “Tuyến quay về gốc” vẽ ở trên, càng thấy rõ cái hay cái dở của văn hóa Trung Tây. Nước ta chủ trương đứa bé lúc còn nhỏ đã được gia đình bồi dưỡng tâm lý yêu mẹ kính anh, sau đó mở rộng ra, yêu người thân thì có nhân với dân, có nhân với dân thì yêu loài vật, tạo thành thế giới giới nhân ái. Có thể nói gia đình Trung Quốc là “Nơi bồi dưỡng nhân ái”, phương Tây từ chữ “Ta” đến chữ “nước”, ở giữa thiếu chữ “Nhà”, nên không có “Nơi bồi dưỡng nhân ái”, thiếu hẳn đoạn từ chữ “Đinh” đến chữ “Bính”, thiếu “Công phu thành ý” tức là “Sự phán xét của lương tâm”. Cho nên học thuyết phương Tây phát huy lên, thế giới trở nên tàn khốc
Về văn hóa vật chất, Trung Quốc dĩ nhiên kém phương Tây nghìn lần, nhưng về luân lý xã hội thì lại hơn nhiều điểm. Về mặt này phương Tây nên theo cách của Trung Quốc, chứ Trung Quốc không nên làm theo phương Tây
Cuối cùng đứng ở trí văn hóa Trung Quốc, Tôn Ngô chủ trương học thuyết Trung Quốc có thể cứu được cái dở của phương Tây và Ấn Độ. Ông lấy Lão Tử đại diện cho học thuyết Trung Quốc đã nói ở phần trên. Ông cho rằng cách nói của phương Tây là thuyết nhập thế cực đoan. Cách nói của Ấn Độ là thuyết xuất thế cực đoan, cách nói của Lão Tử là xuyên thông nhập thế và xuất thế làm một. Các nhà Nho thời Tống Minh đều làm công việc của Lão Tử, coi như đã nghiên cứu hai đến ba nghìn năm, mở ra con đường rộng thênh thang. Nếu đem học thuyết này, phát huy lên làm tỏa hào quang thì có thể dung hợp ba nền văn hóa Trung - Ấn – phương Tây thành một
Theo thuyết “Tuyến quay về gốc”, người phương Tây lấy khởi điểm từ “Đinh” đi về phía trước, đến điểm “Kỷ” hoặc điểm “Canh” thì dừng, không quay đầu lại. Người Ấn Độ lấy khởi điểm từ “Đinh” đi về phía sau, đến điểm “Giáp” thì dừng, không hề quay đầu lại. Lão Tử lấy khởi điểm từ “Đinh” đi về phía sau, đến điểm “Ất”, lại quay đi về phía trước, đến điểm “Canh” thì dừng, lại chiếu cố cả đôi bên. Lão Tử nói: “Tiết căn phục mệnh” là thông với học thuyết Ấn Độ
Cách nói “Lấy chính trị quốc, lầy kỳ dùng binh” là thông với học thuyết phương tây. nói về cách xuất thế thì ông nói không sâu bằng Ấn Độ, nói về nhập thế thì ông nói không kỹ bằng phương Tây, nhưng hình như học thuyết ông là cầu nối giữa học thuyết phương Tây và học thuyết Ấn Độ xuyên thông là một
Học vấn phương Tây coi trọng phân tích, học vấn Trung Quốc coi trọng hội thông. Người phương Tây bất kể việc gì đều chia thành khoa nghiên cứu, người Trung Quốc cổ xưa hể mở miệng là nói trời đất vạn vật, theo cách nói tổng quát toàn thể. Lấy “Tuyến quay về gốc” mà nói, người phương Tây nó cá nhân chủ nghĩa chỉ thấy điểm “Đinh” (ta) ở tuyến mà không thấy các điểm khác. Nói đến chủ nghĩa quốc gia chỉ thấy điểm “Kỷ” (nước), nói đến chủ nghĩa xã hội chỉ thấy điểm “Canh” (thiên hạ) nghĩa các chữ xung đột nhau. Học thuyết của Khổng Tử tu thân tề gia trị quốc bình thiên hạ là nhất quán. Lão Tử nói: “Tu thân mình đức sẽ chân, tu nhà mình đức sẽ dư, tu làng mình đức sẽ trường, tu nước mình đức sẽ phong, tu thiên hạ đức sẽ phổ”. Khổng Tử, Lão Tử đều nhìn thông suốt tuyến này cho nên cách nói: “Coi thiên hạ làm một nhà, coi Trung Quốc làm một người”. Như thế dù nói cá nhân, quốc gia, xã hội đều không cảm thấy xung đột. Học vấn Trung Quốc coi trọng hội thông nhưng lại mênh mông khái quát, người phương Tây nghiên cứu rất tỷ mỷ nhưng lại không quán thông. Đem cách nghiên cứu phương Tây quán thông với cách nhìn Trung Quốc. Các loại chủ nghĩa sẽ không xung đột, văn hóa Trung Quốc phương Tây sẽ dung hợp làm một
Người phương Tây nói cạnh tranh, nói siêu thân, thực ra là cái tôi ở cuối trào lưu, thử hỏi 3 nhà triết học Hy Lạp sao không là những nhân vật cùng dòng với Khổng Tử, Lão Tử, Trung Quốc là nước Đạo Giáo Nho, Phật, Lão cùng tồn tại nhưng các sư sãi, đạo sỹ , cử nhân tú tài thời nay mấy ai theo kịp Thích Ca, Khổng Tử, Lão Tử trào lưu cuối kỳ giống như phương Tây vậy. mọi xung đột trên thế giới từ tư tưởng mà có, xung đột tư tưởng  lại bắt nguồn  từ xung đột học thuyết, gọi là xung đột những học thuyết cuối kỳ, còn ban đầu Thích Ca, Khổng Tử, Lão Tử, Xo – crat… có xung đột đâu. Tương lai nhất định sẽ có người đem học thuyết Nho, Phật, Lão, triết học Hy Lạp, học thuyết thời Minh, học thuyết cận đại phương Tây hợp lại nghiên cứu, dung hội quán thông sáng tạo ra học thuyết mới. Việc làm này giống như Trình Minh Đạo dung hợp 3 đạo Phật, Nho, Lão thành môn lý học. nếu công việc này hoàn thành tư tưởng thế giới sẽ nhất trí, hành động nhất trí, có hy vọng thế giới Đại Đồng
Những điều nói trên là nội dung tóm tắt giới thiệu cuốn sách “Xu thế học thuật Trung Quốc” của Tôn Ngô, Ngoài ra cuốn sách này còn nói đến mối quan hệ giữa “Tống Học” và “Thục học” chỉ rõ học thuyết của ông họ Trình chịu ảnh hưởng rất sâu sắc của Thục học thời bấy giờ, nhất là dịch học của Trình Y Xuyên. Đồng thời đạo Lão, đạo Phật một thời ở Tứ Xuyên, 2 ông họ Trình chịu ảnh hưởng sâu, cho nên sau này họ mới làm được công việc dung hợp 3 đạo giáo. Thêm nữa Thục Chủ Mạnh Kinh lúc đó nhiệt tình với văn hóa và nên chính trị cũng trong sáng, coi như đứng đầu thiên hạ. Tô Tử nghiên cứu học thuyết Lão Tử là người trước đây chưa có ai, tất cả sự kiện ấy đủ để chứng minh Tứ Xuyên có thể là cái nôi văn hóa của Trung Quốc từ đó về sau
Tôn Ngô khảo chứng và thuyết minh về các vấn đề trên mà những nhà nghiên cứu lịch sử học thuật Trung Quốc chưa từng chú ý đến
Ông nêu lên Lão Tử nhằm quán thông toàn bộ học thuyết Trung Quốc; ông lại nói học thuyết phương Tây và Ấn Độ đều cực đoan chỉ có học thuyết Trung Quốc có thể điều chình hai cực đoan ấy, quan điểm ông có chủ quan phiến diện không, mong đọc giả cho ý kiến

BÀI VĂN HAY Ở TUỔI SÁU MƯƠI


Bỉ nhân  năm nay (năm dân quốc thứ 28) vừa tròn 60 tuổi. Lúc này dù có buông xuôi tay nằm giữa chính tẩm hoặc bị máy bay Nhật ném bom chết, thì trên bài văn tế  phải viết đã lên thượng thọ sáu mươi có lẻ. Khi có sống không một ai biết, sau khi chết tôi nói khắp cả  mọi người ai nghe nói đều phải chúc mừng tôi. Tôi nói: “Thôi đừng hao tâm tổn sức làm gì, nhiều người làm quan, họ tự dựng bia công đức, tự sửa lấy nhà thờ, thế thì bài văn khải sự không dám phiền bạn bè, tôi sẽ tự làm lấy”
Viết bài thọ văn phải viết sự nghiệp văn chương công đức của người ấy, những cái khác có thể lược đi, Bỉ nhân là kể thất phu vươn lên làm thánh nhân Hậu Hắc, sáng lập ra một đạo giáo, khác với Nho, Phật, Lão đó là đặc điểm riêng nhất. Nhưng làm việc này mọi người đã biết, nhà nhà đã học, có nhiều người dốc sức thực hiện, đặc điểm này không cần khen ngợi nữa. Điều bây giờ chẳng qua muốn nêu rõ trọng trách của Bỉ nhân để về sau tự khen mình mà thôi
Bỉ nhân sinh ngày 13 tháng giêng năm Kỷ Mão tức là năm thứ năm Triều Quang Tự, ngày hôm sau mới lập xuân. Thày tướng số bảo: “Người sinh năm Kỷ Mão  đoán mệnh Mậu Dần”. Cho nên ai sinh năm Kỷ Mão là đồng tuế với tôi, ai sinh năm Mậu Dần cũng là đồng tuế với tôi, Năm Kỷ Mão thời Quang Tự là năm 1879 dương lịch, Anhstanh sinh ngày 19 tháng 3 sau tôi một chút, cói là em đồng tuế với tôi thế mà trong thuyết tương đối của ông ta đã chấn động toàn cầu. Còn “Hậu Hắc Học” của tôi mới phổ cập ở tứ xuyên, tôi không khỏi hổ thẹn với người em đồng tuế của tôi. Sau này chỉ có tuyên truyền mạnh mẽ học thuyết do tôi phát minh mới không uổng phí cuộc đời. Ngày 13 tháng giêng  trên lịch ghi rõ: “Ngày dương công sự kỵ, mọi việc không thành”. Khổng Tử sinh ngày 27 tháng 8 cũng là ngày dương công sự kỵ, số tôi giống như Khổng Tử, vận làm quan  không hanh thông, chỉ được coi là giáo chủ, trời sinh ra tôi, đãi ngộ giống như Khổng Tử, tôi đâu dám phỉ báng
Cách tính ngày dương công sự kỵ, lấy 13 tháng giêng làm khởi điểm, sau đó lùi hai ngày cho đến ngày 21 tháng hai, mồng 9 tháng 3 … đến tháng 8 lại biến đổi lấy ngày 13 làm khởi điểm, mỗi tháng lùi  2 ngày tức là ngày 25 tháng 9, ngày 23 tháng 10… đến tháng giêng bỗng lấy ngày 13 làm khởi điểm. Mời các vị giở lịch sử ra xem sẽ thấy tôi không nói khoác. Hễ là giáo chủ đều ứng vận sinh ra, ngày sinh của Khổng Tử là  ngày 27 tháng 8 cho nên ngày sinh của tôi không thể không là ngày 13 tháng giêng. Như vậy hàng nghìn năm trước dương công đã đoán được rồi
Ngày sinh của Khổng Tử là ngày 27 tháng 8 âm lịch, các nhà nghiên cứu lại nói khác đi, đổi thành 27 tháng 8 dương lịch, người thường lơ mơ đâu biết. Hàng nghìn hàng vạn năm sau, tín đồ tôi uống nước nhớ nguồn, sẽ dựng cho tôi cái miếu Hậu Hắc, cúng tế vào ngày sinh thánh, phải tra biểu đối ngày tháng âm dương thêm phiền phức. Thôi thì coi ngày 13 tháng giêng năm này (năm quốc dân thứ 28) là ngày sinh giáo chủ Hậu Hắc, sau này mỗi năm đến ngày ấy vào miếu cúng tế chẳng tốt lắm sao
Tứ xuyên từ Hán triều, sau khi Văn ông hưng học, văn hóa so với Tề, Lỗ thời Tấn, Đường có phần sáng sủa hơn. Thực học hưng thịnh lên đủ cạnh tranh với các tỉnh  Giang, Triết. Cuối thời Minh, giặc Hiến chà đạp đất Thục, gây nên thảm sát chưa từng có. Các hào kiệt nổi lên tập võ, gây nên khí thế, đến đời thanh, có nhiều danh tướng được phong tước công, hầu, bá, tử, nam đủ cả. Thời gia đạo, cả nước có 19 trấn tướng thì Thục chiếm đến 7 – 8 người. Do đó võ công đất Tứ Xuyên rất thịnh còn văn học không lên được. 60 năm trước, Trương Văn Tương lập lên Tôn kinh thư viện, sau đó Vương Nhân Thu tiên sinh đến Tứ Xuyên dạy học, cùng các học trò ông là Giao Tú Bình, Tống Văn Tử viết nhiều sách để lại cho đời, văn chương lại thịnh lên. Theo nhật ký Tương Y Lâu, ngày 12 tháng giêng năm Kỷ Mão là ngày Vương tiến sinh tiếp nhận Tôn kinh thư viện, ngày sau thì sinh tôi, ngày sau nữa lập xuân, vạn vật đổi mới, thế mới biết thạo háo ứng vận thật kỳ diệu
Đế vương hưng nghiệp tất phải khu trừ người đi trước, giáo chủ hưng đạo cũng phải khu trừ người đi trước, trật tự bốn mùa cứ thế mà đi. Khổng Giáo hưng thịnh đã hơn hai ngàn năm, đỉnh cao vời vợi, giờ lại chọn đất Tứ Xuyên làm nơi sinh ra giáo chủ mới khiến cho thánh nhân Đông Lỗ đối lập với thánh nhân Tây Thục. Người Tứ Xuyên đã khu trừ thói chuộng võ đến tôi là đỉnh cao
Dân quốc năm thứ nhất mở ra kỷ nguyên mới về chính trị, giờ đây đã là Dân quốc năm thứ 28 cũng tức là  28 năm kỷ nguyên Hậu Hắc. Tiến hóa của Tứ Xuyên có thể phân ra 3 thời kỳ: Thời kỳ thứ nhất, khai quốc hoang sơ, chưa có gì sâu sắc, sau khi Tần thông với Thục, do Tư Mã Tương Như đời Hán rồi đến Dương Thuận đời Minh, người Tứ Xuyên coi văn học là thế mạnh, đó là công lao của các văn ông vậy. Đến thời Thanh, người Tứ Xuyên lấy võ công làm thế mạnh, đó là thời kỳ thứ hai, công lao ấy thuộc về Trương Hiến Trung vậy. Từ Dân quốc đến nay, người Tứ Xuyên lấy “Hậu Hắc Học” là thế mạnh, đó là thời kỳ thứ ba, công lao ấy thuộc về tôi vậy
Từ Dân quốc năm thứ nhất trở về trước, tôi cùng con cháu và học trò ra sức truyền bá, biến Tứ Xuyên thành một nước Hậu Hắc, cho nên kẻ sĩ Trung Quốc lớn tiếng hô rằng: “Tứ Xuyên là căn cứ phục hưng dân  tộc. Sao nghĩ muốn phục hưng dân tộc, cần đánh đổ Nhật Bản, bỏ qua học thuyết này, còn có cách gì khác?”. Cho nên trong cuốn “Hậu Hắc Tùng Thoại” tôi viết ra, gào lên khẩu hiệu “Hậu Hắc cứu quốc” nêu lên  Việt Vương Câu Tiễn là  nhân vật điển hình. Ban đầu Câu Tiễn sang nước Ngô, nếu bản thân mình không chịu  xưng thần, vợ là thiếp phục vụ Phù Sai, sẽ bị chết thôi, đó gọi là Hắc. Từ 918 đến nay, nước ta từng bước thoái nhượng, đó là phương thức Câu Tiễn diệt Ngô. Cục thế nước nhà, định ra quốc sách, nếu có chỗ nào ngầm hợp với học thuyết của tôi thì là may mắn lắm
Bỉ nhân phát minh “Hậu Hắc Học”, là bí mật xưa nay chưa được truyền lại, từ nay về sau ra sức tuyên truyền đến chết mới thôi. Đối với xã hội, bỉ nhân có cống hiến vô cùng to lớn, nhân sỹ trong xã hội cần biểu dương Bỉ nhân. Con Cháu, học trò Bỉ nhân cần làm thơ văn ca ngợi công đức ngày sinh giáo chủ. Theo con mắt Bỉ nhân, lẽ trái ở đời, vinh dự đều có giá trị ngang nhau. Ngoài học trò con cháu ra có người tâm đầu ý hợp như Dật Bá Ngọc, có người đi theo hướng khác hoặc có người chống đối lại như Sở Cuồng Thả Trúc, Chinh Sinh Miêu… nên cố gắng viết đôi lời dù khen ngợi hay chửi bới, Bỉ nhân đều kính cẩn tiếp nhận. Sau này, tập hợp thành một cuốn sách tên là  Hậu Hắc giáo chủ vinh lục”. Nghìn vạn năm sau, “Hậu Hắc Học” sáng giữa trời quan thì sõng cũng vinh mà chết cũng vinh. Trung Hoa dân quốc vạn tuế, “Hậu Hắc Học” vạn tuế. Ngày 13 tháng 3 năm thứ 28 kỷ nguyên Hậu Hắc, Lý Tôn Ngô kính cẩn thưa rằng: Ngày này tức là ngày trước một ngày ông em đồng tuế Anhstanh tròn 60






GHI CHÉP VỀ KHỔNG TỬ MỞ TRƯỜNG HỌC

          Trường học họ Khổng không đâu không có. Tài liệu giảng dạy thuần lấy từ “Luận ngữ”. Tác giả Tôn Ngô dùng cách cắt đoạn trong văn bát cổ, tùy ý bớt đi thêm vào, chữ nghĩa viết sai cũng mặc, thời đại nói sai cũng mặc, có thể nói là một việc làm cực kỳ hài hước. Bây giờ chép lại một đoạn nói về lúc trường sắp đóng cửa xem
Khổng Tử mở trường học, mới đầu phân các khoa như: Tu thân do Nhan Uyên, Văn Tử Ngang, Nhiễm Bá Ngưu, Trọng Cung phụ trách; về ngôn ngữ do Tể Ngã, Tử Cống phụ trách; Quốc văn do Tử Du, Tử Hạ phụ trách; cách trí do Tăng Tử phụ trách; số học do Nhiễm Hữu kiêm nhiệm; thể thao do Tử Lộ kiêm nhiệm, lịch sử do Khổng Tử tự đảm nhiệm, về sau các giáo viên kẻ chết, người bỏ đi. Thầy hiệu trưởng Khổng Tử là một thầy vạn năng, hễ thiếu giáo viên là thầy dạy thay. Trừ khoa ngôn ngữ ra, các khoa khác đều do Khổng Tử dạy thay, ở trường chỉ có một nữa giáo viên, tại sao lại nói chỉ còn có một nữa giáo viên? Vì tất cả trường chỉ có một mình Tể Dư là giáo viên, hàng ngày ông ta ngủ suốt, đến giờ lên lớp Khổng Tử phải đến phòng ngủ gọi ông ta dạy. Mỗi giờ chỉ dạy không quá 30 phút, cho lớp tan rồi đi ngủ, nên gọi là một nữa giáo viên
Giảng bài không nghiêm túc, tự nhiên sinh ra lỏng lẻo. Học trò suốt ngày uống rượ nhậu nhẹt, dọa nạt ra lệnh nhưng rất có cảm tình với thầy hiệu trưởng. “Có rượu thịt mời thầy xơi”. Khổng Tử rất khách khí “Thấy món ăn ngon biến sắc mặt mà ngồi”, thầy trò chóng quên nhau. Có lúc họ trò mời thầy đánh cờ, đánh bài, lúc đầu học trò lên mời thầy, lâu lâu về sau, Khổng Tử thấy thích thú, hàng ngày sau khi ăn sáng xong bèn nói với học trò “Suốt ngày ăn uống, chẳng làm gì, khó chịu thật”, “Ăn no rồi không có việc gì làm, ngày đó buồn thật”. “Trong hòm các người có quân cờ, mạt chược, tú lơ khơ không, đem ra chơi đi, ngồi không chẳng có việc gì làm”. Làm như vậy trong trường tự nhiên yên tĩnh, không ngờ bên ngoài có người dị nghị, có người có viết ca dao chửi bới họ
Ngoài ra Tôn Ngô còn định viết một cuốn tiểu thuyết đặt tên là “Khổng cáo đại chiến trật văn” nhưng  chưa xong. Những đoạn tôi đọc được ở một hồi, tài liệu toàn lấy ở Luận Ngữ và Mạnh Tử, linh tinh lộn xộn chẳng định hiểu nói gì. Theo ông ta nói, văn bát cổ, nhất là những người giỏi văn bát cổ châm biếm vừa dùng văn phụ lục. “Khổng cáo đại chiến trật văn” bắt đầu như sau: Cuối thời mãn Thanh, “Quảng ích tùng báo” ở Trùng Khánh đăng bài: “Luận tội vua Thuấn” kể mười mấy tội lớn của Thuấn, chứng cớ xác đáng, lâu ngày chỉ còn nhớ mang máng. Nói Thuấn đục thông bốn núi, cướp ngôi vua Nghiêu, đó là tội lớn không cần nói nữa. Hay nhất là nói, Thuấn cho ta già rồi, mốc đồng tử mắt ta ra, nhét vào mắt ông ta, cho nên ta bị mù còn ông ta mỗi mắt có hai đồng tử, đó là một tội lớn. Nga Hoàng Nữ Anh là tổ cô của Thuấn, tộc phả còn ghi, ông đã lấy làm vợ, đó là tội lớn thứ hai. Thời vua Nghiêu, thiên hạ có 12 châu, sách của Thuấn viết: ta có 12 châu. Thuấn sai người đốt 3 châu, đến thời Ngu chỉ có 9 châu, đó là tội lớn thứ 3…
Toàn bài văn viết rất mùi mẫn, chỉ tiếc không nhớ rõ, lúc ấy, tờ báo nọ còn đăng một thiên tiểu thuyết, nói Đường Tam Tạng cùng các đồ đệ Tôn Ngộ Không, Trư Bát Giới, Sa Hòa Thượng đi du học nước ngoài…
Còn có người viết tiểu thuyết nói Mạnh Tử đi lấy kinh ở Đông Thiên, giữa đường gặp Cáo Tử, tay cầm “lá liễu” miệng ngậm “nước sông”, Mạnh Tử không giết nổi hắn, đi cầu cứu Tăng Tử, Tăng Tử tay cầm “Chùy thận chung” cưỡi rùa “dân đức” miệng nói “Thận chung đuổi xa, dân đức quy hậu” vẫn không thắng được Cáo Tử, bèn cầu cứu Khổng Tử, Khổng Tử tay cầm “Thương nhân hồ” cỡi “bất vấn mã” hô: “Thương nhân hồ, bất vấn mã”, nhưng vẫn bị Cáo Tử đánh bại. Bỗng nhiên từ không  trung bay đến một người, cỡi “lợn ốm” hô lớn: “ta họ Nghiêu tên Thuấn, bắt Cáo Tử phải hàng”. Tôi nghĩ: “Khổng Tử là giáo chủ lớn nước ta, làm sao bị thua dễ dàng thế?” Phải có một trận ác chiến mới đúng nên mới viết bổ sung cho cuốn “Khổng cáo đại chiến trật văn”, chép ra để mọi người xem
Chính văn của tiểu thuyết bắt đầu từ lúc Khổng Tử nhận được thư cấp báo của Tăng Tử, ông liền điểm ba nghìn quân mã, bảy mươi hai đại tướng, oai phong lẫm liệt tiến đánh dinh Cáo Tử. Cáo Tử nhìn thấy quân Khổng kéo đến liền dẫn binh ra ứng chiến, hai bên dùng vũ khí, quân mã xông vào đánh giáp lá cà, mọi danh từ dùng cho chiến sự ấy đều lấy từ thành ngữ của Luận ngữ và Mạnh Tử, lựa chọn giai âm dễ nghe. Giờ trích một đoạn mô tả chiến sự ác liệt ấy
Khổng Tử nổi giận, rút bên người ra một đoạn bùa thiêng gọi là “Bùa giết người” quẳng lên không hô lớn: “Lục đinh lục giáp đâu?” Chỉ thấy trên không bay đến một người cưỡi ngựa “Bất vấn” lớn tiếng: “Ta là thần lửa đây”. Nói xong xua rồng lửa, ngựa lửa, vịt lửa, chuột lửa xông ra dập tắt ngọn lửa. Dòng nước chảy mãi, tràn ngập mênh mông trong chốc lát nhấn chìm ngựa của họ Khổng. Khổng Tử thấy vậy nói rằng: “Không sợ, chờ ta  niệm chân ngôn tránh nước”. Nhan Uyên hãy dẫn người ngựa từ nước chui ra. Nói xong miệng Khổng Tử đọc: “A, A, nước A từ nước mà ra”. Nhan Uyên đang định chui ra bị Cáo Tử trong thấy hét lớn: “Định chạy đi đâu?” giơ tay chỉ một cái, nước biến thành bức tường sắt, hô một cái Nhan Uyên ngã lăn ra đất, nhìn lên thấy nước đã cao trăm trượng, Nhan Uyên than rằng: “Nước ơi mày cao quá, quá cứng quá tao chết mất”. Đến lúc này Khổng Tử vô kế khả thi, Tử Lộ đang bị thương nằm dưới đất kêu lên: “Tôi có tài làm nước đóng băng nhưng bị thương rồi không làm gì được. Thầy ơi thầy có pháp thuật ngồi trên nước sao không dùng?”. Câu nói làm Khổng Tử tỉnh ngộ, bèn dẫn môn sinh nổi lên mặt nước chay đi; Sai Nhiểm Hữu, Tử Cống đi sau cùng. Cáo Tử dẫn người đuổi theo, Nhiểm Hữu, Tử Cống giơ đại đao lên, huơ tay định chém hai lần, Cáo Tử trông thấy sợ quá, ôm đầu chạy trốn. Anh em Cáo Tử trông thấy chẳng hiểu đầu đuôi vì sao bèn xúm quanh Nhiễm Hữu, Tử Cống hỏi: “Chúng tôi học đạo Ni Sơn, 18 môn võ nghệ đều tinh thông mà vẫn chưa biết đao pháp này, các vị học ở đâu vậy?”. Hai đứa cười tít: “Binh pháp này các  người không biết được, chỉ có Nhiễm Hữu và Tử Cống biết được thôi”. Chuyện dông dài không nói nữa. Khổng Tử về đến dinh thấy quân mã mất một nữa rất là đau xót, bèn hạ lệnh, gọi Tể Dư đến dặn rằng: “Tướng sĩ toàn dinh mệt mỏi lắm rồi, hôm nay cần được nghỉ ngơi, ngày mai sẽ tiếp tục đại chiến. Chỉ lo rằng Cáo Tử nửa đêm cướp trại, người ban ngày ngủ nhiều rồi (Tử Dư vốn ngủ ngày) nên ban đêm thức và đi tuần”. Khổng Tử nói xong, gục đầu xuống rồi, gáy o o ….

CHỦ TRƯƠNG KHẢO THI BỊ ĐÁNH

nNăm Dân quốc thứ 11, Tôn Ngô cùng Du Tử là đốc học của tỉnh đi khảo sát giáo dục thấy thành tích của các trường ở các tỉnh phía Nam, phía Bắc so với tỉnh mình không kém là mấy nhưng do chế độ giáo dục hiện hành bị gò bó thì không thể phát triển tốt đẹp được. Vì vậy sau khi đi khảo sát về ông ra sức thực hành chế độ khảo thi mong sao thoát khỏi sự tồi tệ này. Học kỳ 2 năm thứ 12, Thành Đô mở hội nghị bàn về chế độ học mới, ông cùng mấy vị Đốc học khác trong tỉnh và nhiều người trong hội nghị nêu ra đề án thi cử, thảo luận ở hội nghị nhưng chưa được thông qua. Sau hội nghị, một mình ông làm tờ trình, chủ trương học sinh các trường tốt nghiệp do Hội đồng nhà nước khảo hạch, mười năm sau, Bộ giáo dục mới ban hành chế độ hội khảo toàn quốc. Tờ trình của ông nêu lên 16 điều và xin cho được làm thử ở Phú Thuận, sau khi tỉnh phê duyệt cử ông làm chánh chủ khảo vào mùa hè năm thứ 13 sau đó mở rộng ra các huyện tỉnh phía nam tỉnh Tứ Xuyên. Mùa hè năm thứ 14, học sinh trung học liên lập phủ thúc châu tốt nghiệp, ông lại làm chánh chủ khảo qua mấy đợt thi. Một buổi tối nhiều học sinh tây cầm gậy gộc que sắt đến nhà lôi ông ra khỏi phòng ngủ, đánh một trận thật đau. Theo ông kể lại, lúc chúng nó đánh trật tự rất nghiêm, khắp trường im lặng, học sinh không nói câu nào, ông cũng ngậm miệng không kêu, học sinh đánh ông chịu đòn. Khi chúng nó đánh chán rồi, bỏ đi mới chửi một câu: “Mày là đồ con chó, còn chủ trương khảo thi nghiêm khắc nữa không?”. Ông nằm dưới đất nghĩ thầm: “Nếu không bị đánh chết, lại làm”. Học sinh đi rồi, ông mời Tri huyện Nghi Tân đến khám nghiệm vết thương viết thành bệnh án, gậy gộc que sắt tập trung lại làm chứng cớ. Sáng hôm sau, lại mời thầy hiệu trưởng trường ấy đến bên giường. Ông đọc cho viết bức điện gửi cấp trên, tường thuật sự việc xẩy ra, cuối cùng nói: “Quan lần bạo động này thấy cần phải khảo thi. Đốc học bị đánh trọng thương, sông chết không quản, nếu không khỏi được, mong cứ cho thi để thay đổi bồi phong bại tục. Chủ trương của tôi nếu được các vị thực hành, dù chết về nơi chín suối cũng lấy làm vinh hạnh
Viết thương vừa đỡ lại tuyên bố tiếp tục khảo thi, ông băng vết thương lên phòng thi, hạ lệnh tất cả học sinh đã đánh ông. Nội quy trường thi càng chặt chẽ hơn trước, học sinh đành phải theo quy củ dự thi. Sau vụ việc này, ông viết một bài “Bàn về chế độ khảo thi” nói rõ sự cần thiết phải thi, chú trọng đến cải cách chế độ học tập do Nhà giáo dục in phát cho các huyện thảo luận. Ông thường nói với mọi người: “Nếu không bị trận đòn đau thì bài viết này không ra đời, tôi phải cảm ơn những học sinh ấy!
Ông cho rằng lần đánh đòn ấy là đáng đời vì bấy giờ học sinh các nơi đang vận động bỏ chế độ thi mà ông lại chủ trương thi rất chặt chẽ, lại không tuyên truyền nói rõ lý do, tránh sao thoát khỏi bị đòn. Sau lần bị đòn ấy, ông mới giác ngộ một điều, việc quan trọng phải thực hành thì càng cần phải tuyên truyền; nguyên nhân ông bị đánh là do nhiều người hoài nghi chế độ thi nên mới có việc chống đối lại
Pháp chế mới của Vương An Thạch vốn đúng, khi ông làm quan ở Đổng huyện đã làm thử, mọi người đều khen là tiện lợi, đến khi ông làm tể tướng, pháp chế này thực hành trong cả nước nên bị thất bại lớn. Nói ông không có nghị lực chăng? Ông không sợ trời không sợ người, gánh vác cả tầm vóc vũ trụ, là một nhân vật xưa nay hiếm. Nói rằng pháp chế mới của ông không tốt sau? Sau khi ông chết, cách làm của ông được người ta sử dụng, có những luật còn áp dụng đến ngày nay, chẳng qua là đổi tên đi và sửa sang một chút mà thôi. Tại sao Vương An Thạch lại bị thất bại? Tại ông thiếu công việc tuyên truyền. Những danh nhân đương thời như Tư Mã Quang, Tô Đông Pha đều không hiểu nên phản đối ông, mỗi người đi một hướng, kết quả hai bên đều tổn thất, không riêng nhân dân bị thiệt thòi, đất nước thiệt thòi gây ra mầm mống mất nước, thật là điều không may. Nếu Vương An Thạch không im lặng tiến hành, trước tiên làm việc tuyên truyền nêu lên cách làm của ông cho mọi người góp ý, loại trừ thái độ cố chấp, dung nạp ý kiến đúng đắn, sửa sang viết lại đưa cho các vị hiền nhân nghiên cứu, chắc họ cugnx khôgn cố giữ pháp luật xưa kia, qua tranh luận để đưa đến nhất trí, mọi người đồng tâm hiệp sức thi hành, đó không phải là việc tốt sao?
Tôn Ngô suy nghĩ như vậy mới đem ý kiến chủ trương khảo thi của ông phát biểu ra
TRIẾT HỌC SỢ VỢ

Giáo chủ Hậu Hắc lúc sinh thời thích viết văn hài hước, hoặc dùng thể tạp văn, hoặc dùng thể tiểu thuyết. Bất cứ bài viết hay thiên truyện nào cũng đều gây ra tiếng cười vui, mắng mỏ, đầy hàm ý chế giễu. Có người nói: “Khi giáo chủ Hậu Hắc còn sống là một người châm biếm cay đắng trong thiên hạ”, tôi cũng nói như vậy. Ông không chỉ là chế giễu người đời, có khi cũng tự chế giễu mình. Nhưng khi ông tự chế giễu mình, lại là sự chế giễu đọc ác người đời hơn, đó là tài ứng biến nhất quán của ông. Tỷ dụ, ông đề xướng “Hậu Hắc Học” rõ ràng là ông mượn đó để chửi người đời, nhưng lại chỉ một mình ông đơn phương cáng đáng, tự coi là giáo chủ của “Hậu Hắc Học”. Ông còn viết cả “Hậu Hắc kinh”, “Hậu Hắc truyện”, “Tạp lục Hậu Hắc truyện” nữa. Nếu có người chất vấn ông: “Tại sao ông chửi người ta?”, tất nhiên ông trả lời: “Tôi đâu dám chửi người ta! Tôi chửi chính tôi đấy”. Thử hỏi bạn có cách gì xử sự với ông ta? Bài viết này chủ yếu giới thiệu bài “Triết học sợ vợ” của ông đã viết. Ở đây muốn làm  rõ một điều nên biết, động cơ của việc ông viết bài này để kiểm định lại luân thường của nước ta đang ngày càng tồi tệ. Cái gọi là năm đạo luân thường (theo lý luận đời xưa của các nho gia Trung Quốc, có 5 đạo luân thường: Quân thần (Vua Tôi), phụ tử (Cha con), phu phụ (Vợ chồng), huynh đệ (Anh em), Bằng hữu (bạn bè) cơ hồ đã bị phá tan hết, trong xã hội không nơi nào không đầy rẫy những kẻ hám của và hám gái. Nhưng tác phong của ông lại không giống những học giả khác, chỉ nhất quán thốt lên những từ ngữ than thở “Đạo lý ở đời không cổ hủ, nhưng sự vật ngày càng thoái hóa”. Ông đã đưa lời than thở bằng khẩu hiệu “sợ vợ”, như là một sự đề xướng và viết thành chuyên luận, với danh nghĩa triết học, cuối cùng còn nêu thành “Phạ Kinh”(phạ là sợ), để so với “Hiếu kinh” của các nho gia. Sự chế giễu này có thể nói là rất độc ác! Bản thân ông có sợ vợ hay không, chúng tôi quả thật không biết, nhưng ông đã từng cùng một số bạn bè nam giới tích cực chủ trương thành lập “Hội nghiên cứu khoa học sợ”, để cùng nhau nghiên cứu khảo luận, nghiễm nhiên ông là Hội trưởng nghiên cứu “Khoa học sợ”. Chẳng lẽ đây không phải là thuyết pháp thể hiện chính ông hay sao?
Ông tự coi luận văn này là triết học, đại ý muốn nói: Phần lớn sự kiến lập một quốc gia tất phải có một trọng tâm nhất định. Nước ta đã tuyên bố là xử sở của lễ giáo, cái chủ yếu trước hết là 5 đạo luân thường, coi là cái gốc của mọi hành động. Cho nên nói: “Thờ vua mà không trung thành là bất hiếu”, “Không tin bạn bè là bất hiếu”, “Ra chiến trận mà không dũng cảm là bất hiếu”. Trọng tâm của cả nước được kiến lập trên một chữ “hiếu”, do đó đã sản sinh ra biết bao sự văn minh. Nước ta nhóm ngó với đầy uy quyền vùng Đông Nam Á đã mấy nghìn năm,  đâu phải là không có nguyên nhân. Từ khi cơn gió từ Châu Âu tràn vào trời đông, nói chung các học giả đều lớn tiếng kêu lên “Lễ giáo là giết người”, trước hết đả đảo chữ “Hiếu”, cả nước mất hẳn trọng tâm. Vì thế những người lo việc nước đã không trung thành nữa, không tin bạn bè nữa, ra chiến trận không dũng cảm nữa. Đó là những hiện tượng như vậy, quốc gia làm sao mà không suy kém, tránh sao khỏi nạn xâm lăng từ bên ngoài? Vì vậy, phải tìm một chữ khác  làm trọng tâm cho việc lập quốc, để thay thế cho chữ “Hiếu” xưa kia.  Chữ này vẫn phải tìm trong 5 đạo luân thường, thì vua tôi đã cách mạng rồi, cha con đã bình đẳng rồi, anh em bạn bè đã bỏ đi rồi (Có lẽ tác giả viết bài này sau cách mạng  Tân Hợi ở Trung Quốc, mới có những lời lẽ như trên), may mà trong đạo luân thường vẫn còn tồn tại đạo vợ chồng. Chúng ta phải coi tất cả mọi thứ cảu nền văn hóa kiến lập trên đạo luân thường này. Con trẻ trong thiên hạ có đứa nào không yêu người thân của chúng, tích ái thành hiếu, cho nên nền văn hóa thời xưa đã được kiến tập trên chữ “Hiếu”. Những người chồng trên thế gian, không ai lại ít yêu vợ, thế là “Tích ái thành phạ” (Yêu nhiều thành sợ). Cho nên nền văn hóa từ nay trở đi phải kiến lập trên chữ “sợ”. Do đó, chữ “Sợ” trong từ sợ vợ không thể không thành trọng tâm của cả nước
Ông nói, người tiên tiến trong “Học thuyết sợ” phải nói trước hết ở Tứ Xuyên. Trần Quý Thường ở triều đại nhà Tống là người cự phách nổi tiếng nhất của giới sợ, câu chuyện về tiếng gào thét của sử tử Hà Đông đã trở thành giai thoại của giới sợ. Cho nên Tô Đông Pha đã tán thưởng bằng thơ rằng: “Sư tử Hà Đông bỗng gầm vang, hồn xiêu phách lạc, chân tay rụng rời” (dịch nguyên văn: “Bỗng nghe tiếng gầm thét của sư tử Hà Đông, tâm hồn rụng rời, làm rơi cả chiếc gậy trong tay”). Đó là ông hình dung trạng thái sợ vợ, coi như không làm chủ được tâm hồn, lục giác tiêu tan cả, nhưng Trần Quý Thường đâu phải kẻ mềm yếu, ông là ẩn sỹ nổi tiếng cao đạo. Người cao đạo ở ẩn đều sợ vợ như thế cả, cho nên chuyện sợ vợ, có thể được coi là đạo lý muôn thuở. Đông Pha lại kể về ông Trần rằng: “Quanh vách đều vắng lặng và ông có ý là tự đắc được làm người hầu cho vợ”. Điều này đã chứng minh, Trần Quý Thường rõ ràng là một đấng ông chồng ngồi trên chữ “sợ”, cho nên trong gia đình mới thu được hiệu quả như vậy
Còn một vị nữa là Lưu Tiên Chủ vốn ở Tứ Xuyên vào thời sớm hơn nữa, có thể nói ông là nhà phát minh kiêm thực hành của môn “Khoa học sợ”. Đêm tân hôn, ông quỳ dưới chân Tôn phu nhân, về sau bị lưu giữ ở Đông Ngô. Mỗi khi gặp điều gì không may đều giữ vợ lại khóc lóc, hơn nữa luôn quỳ gối. Gặp phải điều ác lại hóa điều lành, gặp nạn lại thành may mắn. Nhưng ông ta phát minh kỹ thuật loại này quả thực có thể nói làm một đấng nam nhi phải vượt qua muôn trùng bể khổ. Phàm những người đã nghe tiếng gầm thét của sư tử Hà Đông có thể dùng bảo pháp của Lưu Tiên Chủ, thì dù ở trogn khuê phòng cũng có được dáng vẻ yên vui, vợ vui thì cũng vui, thậm chí vợ vui cũng thút thít khóc được
Tác giả còn lấy trong lịch sử để chứng minh: Sau thời Đông tấn, nam bắc đều ngang sức với nhau, trải qua Tống, Tề, Lương, Trần cho đến khi Tùy Văn Đế xuất hiện mới thống nhất được nam bắc, thế mà Tùy Văn Đế lại là người sợ vợ nhất. Một hôm, một mình Hoàng Hậu nổi giận, Văn Đế sợ quá, chạy vào trong núi, trốn hai ngày, nhờ có các đại thần khuyên giải được Hoàng Hậu, mới dám trở về. “Phạ Kinh” nói: “Gặp vợ thì như chuột, gặp kẻ địch thì như Hổ”. Tùy Văn Đế thống nhất được thiên hạ ai dám nói là không xứng đáng?
 Cuối đời nhà Tùy thiên hạ đại loạn, Đường Thái Tông quét bọn vương hầu hùng bá bốn phương, bình được thiên hạ, mưu thần được dùng là Phòng Huyền Linh cũng là một người rất sợ vợ, ông thường bị vợ áp bức, vô kế khả thi, bỗng nhiên một hôm ông nghĩ: “Thái Tông nay là thiên tử, đương nhiên có thể chế phục được bà ta”, do đó ông đã tố khổ với Thái Tông, Thái Tông nói: “Khanh gọi bà ấy đến, đợi trẫm  xử lý”. Nào ngờ Phòng phu nhân chỉ nói vài câu đã làm Thái Tông câm miệng không nói được lời nào, bèn nói riêng với Phòng Huyền Linh: “Trẫm mới gặp đã sợ bà ấy rồi, từ nay về sau cứ theo đúng mệnh lệnh của bà ấy là được”. Thái Tông mới gặp của một bầy tôi đã sợ, thật không đáng hổ thẹn là một anh quân khai quốc
Trong lịch sử nước ta, không những phải là người sợ vợ mới có thể thống nhất được toàn quốc; mà chính những kẻ an phận ở một góc trời nào đó nếu không sợ vợ, không thể chống đỡ được những nguy kịch. Những người an phận thời Đông Tấn thuở xưa đều dựa vào Vương Đạo để được yên thân, dựa vào ông ta; nhưng cải hai bên đều là những phần tử tiên tiến của giới “Phạ học” cả. Vương Đạo với chức phận tể tướng, kiêm chức chủ tịch những cuộc họp bàn suông. Một hôm tay cầm một sợi lông bẩn, ngồi trên chức vị chủ tịch, chính lúc đang trò chuyện phấn khởi nhất, bỗng nhiên được báo: “Phu nhân đã đến!”, ông ta vội vàng nhảy lên xe chạy, làm như gặp lang sói không bằng. Nhưng công lao của ông ta trong triều đình rất lớn, đã giành được sự sủng ái với chín lần ban thưởng của thiên tử. Xét cho đến cùng toàn là nhờ vào sức mạnh của chữ sợ cả. Phù Kiên dùng vạn quân đánh nhà Tấn, bị Tạ An vây chặt ở một nơi vắng lặng, mà Tạ An không hề thay đổi sắc mặt, đã đánh bại và giết Phù Kiên, cũng là nhờ sức mạnh của chữ sợ. Bởi vì mọi người đều người: Bà vợ Tạ An dùng lễ giáo của Chu Công sửa đổi để trói buộc chồng bà, Tạ An từng phải trải qua sự huấn luyện nghiêm khắc của phu nhân đã quen với tập quán dù núi Thái Sơn có đổ xuống trước mặt cũng không hề biến sắc. Phù Kiên làm sao biết được địch thủ của mình
Tác giả chủ trương tầm quan trọng của chữ sợ vợ như vậy, khó tránh khỏi sự hoài nghi của người đời. Cho nên có người hỏi ông rằng: “Tai họa từ ngoài đưa đến nghiêm trọng như vậy, nều lại đề xướng “Phạ học” nuôi thành thói quen, nếu kẻ địch đến, sẽ sợ hãi như tâm lý sợ vợ, làm sao tránh khỏi vong quốc?”. Ông nói: “Không phải thế đâu!”. Ngày xưa có viên đại tướng rất sợ vợ, một hôm nổi hứng lên nói: “Sợ gì?”, bèn ra tướng lệnh, tập trung cả ba quân lớn bé, lệnh cho người mời phu nhân ra, định lấy quân pháp xử lý, phu nhân của ông ta tới, thét hỏi: “Mời gọi tôi có việc gì?”, ông ta hốt hoảng phục xuống dưới đất nói: “Mời phu nhân ra duyệt binh”. Việc này đã được tác giả tra cứu nhiều lần, mới biết chuyện đó nói về Thích Kế Quang triều đại nhà Minh. Nhưng ông ta không hề cảm thấy lạ lùng, Kế Quang tuy làm việc quân cực kỳ nghiêm, con ông ta vi phạm quân lệnh, bèn ra lệnh chém đầu; nhưng phu nhân tìm ông ta và làm ầm lên, ông ta tự biết không có gì khuất phục được, không dám lên tiếng biện hộ, thế là nuôi thành thói quen sợ vợ, nào ai có biết một khi đã sợ thì thường cái mật to lên, về sau Nhật Bản đến, ông ta đã không sợ, trở thành một anh hùng kháng Nhật. Bởi vì Nhật Bản thật đáng sợ, nhưng lại không đáng sợ bằng vợ, cho nên ông ta dám xông lên chiến đấu. Phàm những ai đã đọc lịch sử Hy Lạp đều biết chàng trai Spắc-tắc mỗi khi xuất trận, vợ bèn nói với ông ta: “Anh trở về không chiến thắng, thì không được phép gặp mặt tôi nữa”. Cứ lần này qua lần khác anh dũng chiến đấu tiêu diệt địch, Spắc-tắc đã tung hoành khắp cả tiểu quốc, rồi vươn lên xưng hùng, nếu ngày thường không thành tập quán sợ vợ thì làm sao thu được hiệu quả như vậy
Tác giả tử trong lịch sử chứng minh danh ngôn cần phải sợ vợ, ông còn khảo sát cả những nhân vật trên vũ đài chính trị, đã rút ra kết luận rằng cấp quan càng cao thì mức độ sợ vợ càng sâu, cấp quan và mức độ sợ vợ tỷ lệ thuận . Vì thế những sự vật từ xưa đến nay được quy nạp thành định lý rõ ràng, nên đặc biệt đã viết thành một số điều về “Phạ Kinh” để răn dạy cho đời sau
Giáo chủ nói: “Sợ vợ là đạo lý muôn thuở phải theo, người dân đã làm như vậy. Trong tội ngũ hình (năm hình phạt:tội chết, tội đày có thời hạn, tội đày không thời hạn, tội giam, tội phạt tiền), có ba ngàn điều nhưng không có hình phạt nào lớn hơn tọi không sợ vợ”
Giáo chủ nói: “Ai là người cũng đều sợ vợ, thế mà dám là người không sợ thì làm sao tốt đẹp được. Ai là người không dám sợ, có thể nói là kẻ không giúp nước hưng thịnh được. Người quân tử có nghĩa vụ chính là tự mình phải là học trò của đạo, cũng là người sợ vợ, đấy là cái gốc để phục hưng trung quốc!”
Giáo chủ nói: “Duy chỉ có các ông lớn là có thể có cái tâm sợ vợ, hễ sợ vợ là ổn định đất nước”
Giáo chủ nói Đạo của “Phạ học” dẫn đến điều thiện, làm người vợ chỉ có nghiêm, làm người chồng chỉ có sợ, trong nhà có nghiêm quân, tức là nói tới người vợ. Vợ phát lệnh ra ở bên trong, chồng phải bôn ba ở bên ngoài, đó là đạo lý muôn thuở”
Giáo chủ nói: “Coi vợ là lớn mới phải đạo! Duy chỉ có vợ cao vời vợi, lớn lao như trời, kẻ không có tài cán gì mới lơ mơ không hiểu! không hiểu không biết thì cứ tuân theo vợ”
Giáo chủ nói: “Cứ làm rồi khắc được, tập cho quen chứ không phải xem xét nữa, suốt đời sợ vợ, và khôgn biết sợ chúng dân nữa”
Giáo chủ nói: “Người quân tử thấy vợ nổi giận thì ăn vị ngọt không thấy ngọt, nghe nhạc chẳng thấy vui, ở không thấy yên, tất phải thành kính, không phải để chướng tai nữa”
Giáo chủ nói: “Mỗi khi vợ có lỗi, thì phải bình tĩnh khuyên can, nói năng nhã nhặn, vẻ mặt hòa nhã, khuyên can không nghe tỏ ra kính trọng ắt sẽ được dài lâu. Ba lần khuyên can không được thì tất phải khóc sụt sùi theo. Nếu vợ nổi giận không vui, có đánh chảy máu cũng không oán giận, tỏ ra kính trọng và biết sợ”
Giáo chủ nói: “Làm người chồng khi vắng nhà mà không về, thì vợ tựa cửa ngóng trông, khi đã xa mà không về thì vợ ở nhà sốt ruột mong đợi không yên. Cho nên vì vợ mà không đi chơi xa, đi chơi phải có hướng”
Giáo chủ nói: “Việc gì của người quân tử, nhìn không thấy gì, nghe không thấy tiếng. Vào phòng thì phải cung cúc lễ độ. Không có lệnh cho ngồi thì không dám ngồi, không có lệnh cho lui thì không dám lui. Vợ lo buồn thì cũng phải lo buồn, vợ vui mừng thì cũng vui mừng”
Giáo chủ nói: “Mưu việc nước mà không trúng cũng chưa đáng sợ, không tin bạn bè cũng chưa đáng sợ, nhưng hễ hành động thì không dám quên, nói ra điều gì cũng không dám quên vợ. Làm việc không thiện nghĩ đến uy danh của vợ, ắt có hiệu quả. Làm việc không thiện nghĩ đến sự tủi nhục của vợ ắt không làm
Giáo chủ nói: “Người sợ vợ tức là nói về thân phận suốt đời của người chồng. Thân thể có phát phù cũng thuộc vào người vợ, không dám kêu đau, thế là bắt đầu biết sợ. Muốn lập thân hành đạo để lại tên tuổi cho đời sau, phải tỏ rõ với vợ là vợ suốt đời”
Theo tác giả chương 12 của “Hữu Kinh”: “Người mới nhập môn phạ học, sẽ thấy thú vị vô cùng. Là người chồng phải tìm hiểu bằng được, áp dụng suốt đời, quả là vô tận”. Cuối cùng tác giả kiến nghị với các sử gia sau này: Lễ giáo cũ chú trọng chữ “Sợ”. Nếu tôi có một người nào đó sợ vợ, thì người đó vinh dự như trung thần hiếu tử, là rất vinh quang. Người có hiếu với bố mẹ là “Người con có hiếu”, người trung với vua là “bầy tôi trung”, người sợ vợ thật xứng danh là “Người chồng sợ”, sử sách ngày xưa có “Những chuyện về bầy tôi trung”, có “Những chuyện về những người con có hiếu”. Lịch sử Trung Quốc tương lai nhất định phải viết “Những chuyện về những người chồng sợ vợ”

ĐÙA VỚI ĐÁC – UYN

Tôn Ngô mỗi khi có vấn đề gì muốn nêu lên, đều suy nghĩ đi nghĩ lại, nghiên cứu nhiều lần, đến lúc tự tin rồi mới viết thành văn, mong sẽ lập được một giả thuyết mới. Lại lấy chứng cứ từ nhiều nguồn, dù chính diện hay phản diện, ông đều chuyên tâm nghiên cứu, tiếp thu hoặc bỏ đi những đều người ta phê phán, lại bổ sung sau đó mới viết thành sách hay chuyên luận. Nhiều tác phẩm của ông được viết ra một cách chậm chạp như vậy. Lấy cuốn “Tâm lý và lực học” mà nói, mới đầu ông viết thành một luận văn rất dài, đến năm Dân Quốc thứ 9 bổ sung thêm nhiều, cho đến Dân Quốc thứ 16, mới công khai phát biểu với đời, cho đến lúc chính thức in thành sách đã là năm Dân Quốc thứ 27, trước khi cuốn sách xuất bản mấy năm, qua những năm nghiên cứu ông thêm vào ba chương, đến năm Dân Quốc thứ 31 ông thêm vào một chương nữa, nếu như ông không mất sớm, chắc đến bây giờ còn thêm nữa. Việc ông viết thêm không giống như “Vải quấn chân của bà già vừa thối vừa dài”, mà thêm bao nhiêu chữ đều nhằm phục vụ cho giả thuyết “Tâm lý biến đổi theo quy luật của lực học”, chương sách ông thêm lần cuối cùng tạm thời không nói ở đây, chỉ đem chương ông thêm lần thứ hai giới thiệu sau đây:
Xét lại học thuyết của Đác – Uyn
Đác – Uyn nghiên cứu sinh vật học mấy năm, nghiên cứu hết côn trùng, thảo mộc, chim muông, cầm thú, rút ra được mấy kết luận, giới khoa học coi đây là những phát kiến quý báu. Nhưng trong phòng thực nghiệm của Đác – Uyn có một động vật cao cấp không được nghiên cứu cho nên học thuyết của ông còn nhiều sơ hở. Động vật cao cấp ấy là bản thân của Đác – Uyn. Đác – Uyn bỏ qua xã hội loài người, sao không lấy Đác – Uyn làm tiêu bản để nghiên cứu bổ sung thêm. Do đó, Tôn Ngô dùng những từ ngữ rất thú vị, thiết tưởng rằng Đác – Uyn sinh ra cho đến lúc ông già chết đi, sự phát triển tâm lý và hành vi ấy là lấy học thuyết Đác – Uyn chống lại Đác – Uyn, từ đó rút ra 5 điều kết luận trong xã hội loài người:
1/ Cùng một con người, tri thức càng tiến bộ, tầm mắt nhìn càng xa, cạnh tranh càng ít
2/ Cạnh tranh lấy sinh tồn làm giới hạn, quá giới hạn sẽ bị tổn hại
3/ Cùng là một người trong một nước, người đạo đức thấp kém đối với đồng loại, càng gần càng cạnh tranh, người đạo đức cao thượng với đồng loại càng gần càng khiêm nhường
4/ Con đường cạnh tranh có hai loại: Một con đường dùng lực ra bên ngoài tấn công người khác, một con đường dùng lực bên trong tìm sức mình. Người dùng lực ra bên ngoài xung đột với lực tuyến người khác, lực của hai người không cân bằng thì một được một thua, hai lực bằng nhau thì cả hai cùng đều bị thương tổn. Người dùng lực vào bên trong không xung đột với lực tuyến người khác, lực của ta và người cân bằng thì cùng bay bổng, ai dùng lực sâu hơn thì người đó chiếm ưu thế
5/ Làm việc gì cũng phải theo nguyên tắc người và ta cùng có lợi, cả hai không được thay thế nhau, thì lợi người và không hại mình hoặc lợi mình mà không hại người
Căn cứ 5 điều luật nói trên thì cần sửa lại 8 chữ “Cạnh tranh sinh tồn mạnh được yếu thua” của Đác – Uyn. Điều luật của Đác – Uyn rút ra từ xã hội cầm thú, nó mâu thuẫn với xã hội loài người, luật của Đác – Uyn nếu ứng dụng trong xã hội loài người, làm nền tảng tạo ra một thế giới loài người chém giết lẫn nhau, nên không thể bác bỏ được
Đác – Uyn nói nhân loại tiến hóa là do cạnh tranh với nhau, nhưng quan sát từ nhiều mặt thì thấy nhân loại tiến hóa là do nhường nhau. Ví dụ: Tôi đi đường lang thang chạy thật nhanh thì thấy phía trước có người đâm bổ tới, tôi phải né tránh ra mới không bỏ lỡ cuộc hành trình. Nếu theo cách nói của Đác – Uyn thay ai đâm bổ tới, tôi phải quật ngã hắn nằm ra đất, đi đường phải đánh mở đường máu mà đi. Thử hỏi trên thế gian này có ai dùng đường ấy để mà đi hay không? Nếu như muốn nói: “Thích nghi để tồn tại” thì phải hiểu lẽ nhường nhau mới thích nghi, mới tồn tại được
Cách nhìn của Đác – Uyn, trong giới sinh vật đầy rẫy hiện tượng cạnh tranh nhau, cách nhìn của tôi trong giới sinh vật đầy rẫy hiện tượng nhường nhau. Thử đi vào rừng mà xem, các cành cây đều nhường nhau, cành lá đều phát triển lên không trung, cành nọ chèn cành kia rất ít. Cây cỏ là vật vô tri còn biết nhường nhau thì thấy nhường nhau là bản tính của giới sinh vật, không nhường nhau thì không phát triển được. Các sinh vật khác cũng vậy, chim muông cũng hót với nhau, các thú vật quần tụ bên nhau, thời gian chung sống hòa bình nhiều hơn, thời gian tranh nhau ít hơn
Do đó có thể rút ra một điều “Giới sinh vật nhường nhau là chuyện thường, tranh nhau là chuyện hiếm”. Đác – Uyn biến thường thành hiếm, có lẽ không đúng chăng? Cành là của cây, nếu như xung đột chống nhau, sẽ níu kéo nhau thành một khối, sẽ không phát triển được. Đại chiến ở Châu Âu làm nhân loại níu kéo nhau thành một khối. Học thuyết của Đác – Uyn nói hiện tượng này là tiến hóa, nghe ra khó thông
Cách nói của Đác – Uyn, ai mạnh thì kẻ đó tồn tại. Nhưng trên thực tế, có lúc kẻ mạnh bị tiêu diệt. Thời đại hồng hoang, hổ báo ở khắp nơi, sức chúng còn mạnh hơn người. Nếu loài người không chiến thắng chúng thfi sao càng ngày chúng càng ít dần đi? Chiến tranh Châu Âu, sức đế chế Đức rất mạnh, muốn bá chủ thế giới, tại sao thất bại? Dân Quốc năm thứ nhất, thế lực Viên Thế Khải rất mạnh có thể thống nhất Trung Quốc, tại sao thất bại?
Sự thực là như vậy, cho nên cần xét lại cách nói của Đác – Uyn. Ta đi sâu nghiên cứu thì biết, hổ báo bị tiêu diệt là vì toàn nhân loại muốn đánh đuổi chúng. Đế chế Đức thất bại là vì thế giới muốn đánh chúng. Viên Thế Khải thất bại là do toàn Trung Quốc muốn đánh hắn. Tư tưởng giống nhau trở thành tuyến hợp lực của hai tướng giống nhau. Hổ báo, Đế Chế Đức, Viên Thế Khải đều do hợp lực mà đánh bại được. Do đó có thể nói “Sinh tồn do hợp lực”. Biết hợp lực thì sinh tồn, chống lại hợp lực thì bị tiêu diệt. Quan sát như vậy thì thấy ai dùng quyền áp bức người khác, tự nhiên sẽ bị đào thải
Quan điểm sai lầm của Đác – Uyn có thể lấy một ví dụ khác để nói rõ: nếu như chúng ta nói với người nào đó: sinh vật tiến hóa như chiều cao của thân người, ngày một lớn lên. Có người hỏi: “Làm thế nào để lớn lên?”, trả lời: “Nếu nó không chết, nó sẽ sinh tồn và lớn lên”; Hỏi: “Làm thế nào để sinh tồn?”, trả lời: “Phải ăn cơm mới sinh tồn”; Hỏi: “Làm thế nào để có cơm ăn?”, chúng ta đứng bên chưa kịp trả lời, Đác – Uyn đưng bên đã trả lời: “Anh thấy người khác có cơm phải cướp lấy mà ăn, có cơm ăn càng nhiều, thân thể càng mau lớn”
Cách trả lời của Đác – Uyn sai hoặc không sai? Chúng ta nghiên cứu thấy Đác – Uyn nói sinh vật tiến hóa không sai, nói tiến hóa nhờ sinh tồn không sai, nói sinh tồn nhờ thức ăn cũng không sai, chỉ câu cuối cùng nói muốn có thức ăn do tranh dành (cướp đoạt) là sai, sửa câu cuối cùng của ông ta là đúng vậy
Hỏi sửa như thế nào? Rất thông thường: có cơm mọi người cùng ăn
Bình tâm mà nói: Đác – Uyn một mực dạy người cạnh tranh nên bị thiên lệch, chúng ta một mực dạy người nhường nhau cũng bị thiên lệch? Ở đây phải đề ra một định lý: “Nhường người, nhường đến mức không nổi hại đến sinh tồn của ta thì thôi, cạnh tranh với người, cạnh tranh đến mức ta sinh tồn được thì thôi”. Học thuyết của Đác – Uyn có thể chia hai phần để xem xét: Ông nói “Sinh vật tiến hóa” phần này nêu lên sự thực. Ông muốn “Sinh tồn phải cạnh tranh, mạnh được, yếu thua”. Phần này phải thích nguyên nhân tiến hóa có nhiều, tranh giành nhau thì tiến hóa hơn, nhường nhau thì tiến hóa, không nhường, hướng lực vào bên trong cũng có thể tiến hóa, hoặc có đủ điều kiện khác cũng chưa chắc là không tiến hóa. Đác – Uyn chỉ lấy cạnh tranh để tiến hóa làm nguyên nhân duy nhất, nên bị lệch lạc vô cùng
Tóm lại, Đác – Uyn phát minh sinh vật tiến hóa cũng như Niu - tơn phát minh ra “Sức hút tâm quả đất” là công thần lớn của giới học thuật, điều ông nói: “Muốn sinh tồn phải cạnh tranh mạnh được yếu thua” không khỏi lệch lạc, cần uốn nắn lại

XÉT LẠI HỌC THUYẾT CỦA CƠRUPOTXKIN

Tôn Ngô nói rằng chỗ sai của Cơ-ru-pot-xkin giống như của Đác – Uyn lấy tình trạng xã hội cầm thú định luật cho xã hội loài người, học thuyết của ông bị sai lệch. Cơ-ru-pot-xkin muốn chỉ trích cái sai của Đác – Uyn nên đã quan sát các loài động vật suốt một giải Mãn Châu và Xi-bê-ri so sánh với loài người nguyên thủy, phát minh ra thuyết dựa nhau để phản bác lại học thuyết cạnh tranh của Đác – Uyn. Ông còn chú ý đến nhân loại, nên coi thắng Đác – Uyn một keo
Nhưng xã hội nguyên thủy không giống như xã hội của loài người văn minh. Cơ-ru-pot-xkin lấy tư cách của người văn minh để quan sát tình trạng xã hội người nguyên thủy, nên kết luật rút ra không tránh khỏi sai lệch. Học thuyết của Cơ-ru-pot-xkin có thể chia ra hai phần, ông chủ trương “Thuyết dựa nhau” là không sai, nhưng từ dựa nhau mà chủ trương vô chính phủ là sai
Cầm thú tiến hóa thành loài người, nên loài người vốn có thú tính, đã mang danh là “Người” ngoài thú tính ra còn có một phần tính người. Đác – Uyn chỉ nhìn thấy phần thú lại không tránh khỏi lược bỏ mất phần tính người. Người nguyên thủy tiến hóa thành người văn minh, nên người văn minh còn mang trạng thái người nguyên thủy, đã trở thành người văn minh thì ngoài trạng thái người nguyên thủy còn có cả trạng thái văn minh. Cơ-ru-pot-xkin chỉ nhìn thấy phần trạng thái nguyên thủy tránh sao khỏi lược bỏ mất phần trạng thái văn minh
Cầm thú thì cạnh tranh không biết nhường nhịn, Đác – Uyn bỏ qua mất điểm này, loài người nguyên thủy sống hỗn độn, không có tổ chức, ở trạng thái vô chính phủ, người văn minh có tổ chức, có chính phủ, điều mà Cơ-ru-pot-xkin bỏ qua là ở điểm này
Về vật thể, tính chất một phần tử giống tính chất một vật thể, xã hội là góp phần mà nên, con người là phần của xã hội, nếu đem cách tổ chức của thân thể vận dụng vào xã hội, nhất định có một xã hội rất tốt. Đạo đức trị quốc nếu dùng chủ nghĩa cạnh tranh thì sai, dùng chủ nghĩa dựa vào nhau cũng sai, tất nhiên phải dùng chủ nghĩa hợp lực
Tổ chức cơ thể con người là chủ nghĩa hợp lực, cơ thể là do nhiều tế bào hợp thành, mỗi tế bào đều có tri giác như con người trong một nước, đại não coi như là chính phủ trung ương. Thần kinh cơ thể đều có thể đi thẳng tới não cũng như 400 triệu dân, lực tuyến của mỗi người đều có thể chạy tới trung ương, tạo thành chính phủ hợp lực. Mắt không cạnh tranh với tai, miệng không cạnh tranh với mũi, hoạt động ăn ý với nhau, nên thuyết cạnh tranh của Đác – Uyn không dùng được. Mắt dùng hết năng lực nhìn, tai dùng hết năng lực nghe, miệng mũi tay chân dùng hết năng lực của nó, nếu tập hợp các năng lực ấy lại thì trở thành một cơ thể rất hoàn hảo, đó là chủ nghĩa hợp lực
Quốc gia có chính phủ trung ương, chính phủ địa phương thì cơ thể con người cũng vậy, chân ta bị con muỗi đốt, chính phủ chân báo cáo chính phủ não, cử tay phải đánh chết con muỗi. Nếu tay phải bị con muỗi đốt, tự mình không giải quyết được báo cáo chính phủ não, cử tay trái đánh chết muỗi. Lúc đang ngủ, chính phủ não không phát huy tác dụng, chân bị muỗi đốt, chính phủ tủy cột sống làm thay chức vụ, điện cho chính phủ tay đánh chết muỗi, chính phủ não vẫn chưa hay
Tai và mũi bị hơi xâm nhập, nhiệt độ thấp xuống, các nơi được báo cáo đưa huyết mạch đến cứu tế, tiếp máu nhiều lần, hơi lạnh vẫn xâm nhập, chính phủ các bộ phận bàn với nhau rằng; chúng ta có tiếp máu nữa cũng vô ích, chi bằng giữ lại phòng phủ cho ta, nên cắt nguồn tiếp máu, tai và mũi trở nên nhợt nhạt
Cơ thể người có chính phủ trung ương, chính phủ tỉnh huyện, những việc mà não nhớ được do các chính phủ báo đến, các chính phủ vẫn có hồ sơ điều tra. Người dùng thuật thôi miên là che mờ chính phủ trung ương mà điều động chính phủ tỉnh huyện, nói lại chuyện cũ, cho nên người bị thôi miên có thể nói chuyện xẩy ra trong ngày, khi tỉnh dậy lại thì quên hết. Người điên nói lung tung là chính phủ não bị bệnh, chính phủ trung ương mất tác dụng, chính phủ tỉnh huyện tự ra lệnh loạn xị, lời người điên nói ra đều là việc xảy ra thường ngày, chẳng qua không được chính phủ trung ương thống nhất và điều khiển
Đêm nằm mộng là lúc chính phủ trung ương nghỉ việc, người các nơi kéo đến nhảy lên vũ đài trung ương. Khi tỉnh dậy, chính phủ trung ương làm việc trở lại, đám người ấy lại lẩn trốn đi. Có lúc chính phủ trung ương nhìn thấy, có thể nhớ một hoặc hai việc xảy ra trong mộng, chúng ta có thể nói cuồng điên cũng như nằm mộng đều là hiện tượng vô chính phủ
Xưa nay khi bị mất nước, nhiều người nói xả thân quyết tử, nhưng khi ra trận co lại, bởi vì xả thân là lý trí từ não phát ra, là mệnh lệnh chính phủ trung ương phát ra, ra trận co lại là cơ bắp co rút, là nhân dân cả nước không muốn
 Ông Văn Thiên Tường khảng khái chịu chết là vì hàng ngày ông làm việc giáo dục nhân dân, nhân dân và chính phủ trung ương vốn đã hành động nhất trí. Nhiều người thường ngày nói không ham sắc, khi đứng trước gái đẹp lại thường không kìm nén được, bởi vì không ham sắc là chủ trương của chính phủ não, không kìm nén được là chủ trương của bộ phận khác. Chúng ta đi đường, trong bụng nghĩ đi hướng này, một hai bước đầu còn chú ý, về sau cứ thế mà đi, đó là chính phủ trung ương phát ra mệnh lệnh nhân dân cứ thế mà làm; nếu từng bước phải chú ý khác nào việc gì lớn nhỏ địa phương đều làm mệt trung ương. Người xưa làm thơ, tình cờ được câu hay, ngờ có xuất thần, sau khi say chữ viết ra thường hay hơn khi tỉnh, đó là do chính phủ trung ương thường ngày huấn luyện tốt nhân dân, gặp việc không cần chỉ phát huy, nhân dân tự động làm việc có khi còn tốt hơn trung ương chỉ huy. Sách tâm lý học nói “Ngoài ý thức” tức là nói chính phủ não ra, còn có chính phủ khác. Qua đó ta thấy tổ chức cơ thể con người rất giống tổ chức nhà nước. Xem xét bản thân, thấy não và năm giác quan rất ăn ý biết học thuyết sáng lập ra có sự hiệp đồng giữa lý trí và tính cảm, đừng để não nghĩ viễn vông mà làm khổ năm giác quan; cũng  đừng thả lỏng năm giác quan mà không bị lý trí phán xét
Xây dựng một đất nước, nhân dân và chính phủ phải hiệp tác với nhau, chính phủ không thể dùng uy lực của mình mà áp chế nhân dân, còn nhân dân cũng không thể có hành vi đối địch với chính phủ. Tổ chức cơ thể con người, mỗi dây thần kinh đều có thể thông với não, não là tổng đài của dây thần kinh, sẽ cùng năm giác quan tự nhiên hiệp đồng chặt chẽ
Vì vậy, lực tuyến của mỗi người phải thấu suốt với trung ương, trung ương là tổng đài trực tuyến của cả nước, chính phủ và nhân dân tự nhiên hợp đồng ăn ý với nhau. Làm được như vậy là chủ nghĩa hợp lực, mới bổ cứu được chỗ thiếu sót của Đác – Uyn và Cơ-ru-pot-xkin, mới hợp với quy luật tự nhiên

LỜI TỰA CUỐN THỰC PHẢ (SÁCH DẠY NẤU ĂN)
Ở TIỆM CÔ CÔ DIÊN

Lúc này cả nước biết tiếng ông Hoàng Kính Lâm – chủ tiệm kiêm bếp trưởng tại tiệm Cô Cô Diên là một người kỳ lạ của thời đại. Ông từng được Từ Hy Thái Hậu biết đến, từng làm tri huyện, được tiếng tốt ở chính trường, bỗng nhiên từ một viên quan lui về làm biếp trưởng, nếu không phải là người có hoài bão thì hẳn phải là người bất tài. Sau khi ông làm bếp trưởng, lúc rỗi rãi ông liên tục đọc sách cổ 15 năm liền không hề gián đoạn, người thường không mấy ai theo kịp cách tu dưỡng này. Các sách mà ông chép lại như bộ “Tư trị thông dám” đã chép xong phải tới mấy nghìn vạn chữ. Một nhân vật có nghị lực như vậy, trước đây đã có kinh nghiệm hoạt động chính trị, nếu ra làm việc gì đó cho xã hội, quốc gia chắc hẳn sẽ có thành tích. Nhưng ông cam chịu rút về mở hàng cơm, làm đầu bếp, không thể nói không liên quan đến hoàn cảnh thời đại
Ông Tôn Ngô không kết giao với ngài Vương Công, không làm bạn với Tiệu Viêm Phụ, vậy mà chỉ chơi với Kính Lâm, nên viết cho ông lời tựa đề cuốn thực phả: Tôi có ông học trò già 62 tuổi là Hoàng Kính Lâm yêu cầu được vào miếu Hậu Hắc để cùng hưởng, tôi đã đồng ý viết tên ông vào Hậu Hắc Tùng Thoại. Mọi người còn nhớ ông ở Thành Đô cạnh Bắc Hoa Đàm, mở tiệm Cô Cô Diên, có đủ món ăn cực ngon, thịnh soạn, khách đến ăn đông. Hôm qua, tôi đến tiệm thấy ông đang tập trung tinh thần chép sách “Tư trị thông giám”, thấy lạ bèn hỏi: “Tại sao ông làm việc này?”, ông nói: “Từ năm 48 tuổi trở đi, tôi chỉ có thể chép sách, tôi đã chép Thập tam kinh, chép thêm Tân cựu đường thi hợp cảo, Lý thiện chú văn tuyển, Tương đài lễ ký, Pha môn xướng hào tập, bây giờ định chép bộ “Tư trị thông giám” mới thỏa lòng”, tôi nói: “Chủ ý ông sai rồi, trước đây ông làm tri huyệ Xạ Hồng, Vu Khuê, Vinh Kinh. Tôi từng đến đấy hỏi dân, họ khen ông lắm, cho rằng ông nỗ lực ở chốn quan trường, nhất định sẽ làm nên sự nghiệp vang dội. Nào ngờ, tôi về đây hỏi ra mới biết ông lui về làm đầu bếp, tự làm lấy mà ăn, bất giác than rẳng “đúng là học trò của ta rồi”. Cho phép ông được vào miếu Hậu Hắc cùng hưởng, không ngờ ông lại làm cái trò này! Phải biết rằng xưa này người làm việc nhiều đến mức lấy xe mà chở, lấy đấu mà đong, không có đất đặt chân đâu? Nấu bếp là nghề riêng của ông rất giỏi, lại bỏ đi mà tranh được thua với người khác, khổ sở biết bao. Bỉ nhân chuyên về “Hậu Hắc Học” nên chuyên giảng “Hậu Hắc Học”; ông chuyên nghề nấu bếp, sao không đem Thập tam kinh, Văn tuyển, Tư trị thông giám đốt đi, viết một cuốn phả về món ăn không hay hơn sau
Kính Lâm nghe nói, giữ vẻ tự nhiên nói rằng: “Năm ngoái, ở Thành Đô lập trưởng sư phạm nữ, tôi nhậm chức thầy dạy nấu ăn, từng phân ra 10 cách: hầm, chưng, nấu, nướng, rán, ninh, sấy, hấp, rang, thui dạy cho học trò với ý định đem 10 cách nấu này phân tích, viết thành sách giáo khoa, nhưng nay thấy công việc lớn quá, lại không có thời gian rỗi, làm sao được!”. Tôi nói: “Ông câu thúc quá, làm sao một lần có thể xong ngay. Tôi mách nước cho ông, mỗi ngày lúc nào có hứng, ông viết 1 -2 đoạn theo dạng tùy bút, lâu ngày tích cóp, rỗi rãi ông lại phân từng môn t HoHHừng loại, nếu không rỗi rãi đã có bản gốc sau này sẽ có người thay ông chỉnh lý. Nếu không sớm viết ra, sau này già yếu ốm đau nằm xuống, ông muốn viết cũng không còn sức nữa, hối cũng không kịp nữa!”, Kính Lâm cảm tạ lời tôi nói, bắt tay vào viết
Môn nấu ăn của Kính Lâm vốn gia truyền. Ông nội ông ta từ Giang Tây về làm quan ở Tứ Xuyên, nấu món ăn rất giỏi, chọn con dâu, ai nấu nướng tồi là không chọn. Nghe nói người con gái họ Trần biết chế biến 300 món ăn khác nhau, bèn hỏi làm dâu, đó là mẹ Kính Lâm. Sau đó đúc kết cách nấu ăn của hai nhà Hoàng – Trần thành một lò. Cuối nhà Thanh, Kính Lâm lên Bắc Kinh làm quan, Từ Hy Thái Hậu ban thưởng cho ông hàm tứ phẩm, 3 năm giữ chức Quang lục tự, lấy khẩu vị ăn ở bếp nhà vua dung hợp với khẩu vị nam bắc, nên nghề nấu ăn của Kính Lâm có thể gọi là đại tài, nên nghề riêng xuất sắc như vậy, tự mình không coi trọng, nếu không công bố với đời, không truyền cho người sau, quả là đáng tiếc?! Kính Lâm đáng khen thay
Người xưa có công đức với dân thì được dân thờ. Tôi thường nói đùa rằng những người được thờ trong miếu Khổng Tử, quá nửa không có lai lịch, nói về công đức cứ xem ngôi thứ trên dưới thì biết, ngồi trên cao ăn thịt lợn nguội là quá đáng rồi. Kính Lâm soạn cách nấu ăn để lại cho đời sau, công đức ấy đủ ngồi ở miếu nấu ăn nghìn đời. Lúc sống làm món ăn ngon cho người ăn, sau khi chết người ta đem món ăn ngon đến thờ cúng, sự báo đáp ấy rất công bằng, chẳng cần dựa vào giáo chủ Hậu Hắc mà danh đã thơm rồi. Người ta quý sự tự lập, Kính Lâm đáng khen thay
Sau này Tôn Ngô chết đi, có Kính Lâm ngồi cùng, người đời sau không thể nào không cúng món ăn ngon. Ta có thể kiêu ngạo với mọi người rằng: “Môn phái ta có Kính Lâm, không phải nhét thịt lợn nguội vào miệng đâu
Lý Tôn Ngô viết lời tựa  này ngày 6 tháng 12 năm Dân Quốc thứ 24 ở Thành Đô

TÔN NGÔ BÀN KINH TẾ

Ông cho rằng phải cải cách chế độ kinh tế, trước tiên tiền của vật chất trên thế gian, cái nào quy công hữu, cái nào quy tư hữu phải phân định rõ ràng. Của công thuộc công, của tư thuộc tư, xã hội mới yên ổn được
Điều 1: Sức sản xuất của quả đất. Thời hồng hoang, quả đất là vật công hữu của cầm thú, sau này co người xuất hiện, quả đất trở thành vật công hữu của loài người. Quả đất này phải do toàn nhân loại hưởng thụ, không được dùng tiền bạc để mua bán. Nhà tư bản mua nó, khoang ruộng thu tô là chiếm dụng công hữu. người lao động mua nó, tự cày cấy cũng là chiếm dụng công hữu. Tại sao vậy? Giả dụ người thuê nhân công trồng cây trên núi, một ngày trả hai đồng, công nhân nhận tiền  thù lao, sức lao động coi như bị xóa. Cây trồng ở núi, sau mấy năm lớn lên, đem bán có thể thu được 100 đồng hoặc 1000 đồng. 98 đồng hoặc 998 đồng phải do toàn nhân loại quản lý. Người lao động chỉ được hưởng cái giá tương đương với sức lao động mà không hưởng được sức sản xuất này. Cho nên nói, nhà tư bản mua  đất khoanh ruộng tô, người lao động mua đất cấy cày đều là chiếm vật công hữu. Do đó, đất đai của quốc gia nhất luật phải quy công hữu, do nhà nước cho thuê, toàn xã hội được hưởng lợi ích mới là hợp lý
Điều 2: Sức sản xuất của máy móc. Làm thợ đứng máy một ngày được 2 đồng, làm thủ công mỗi ngày thu nhập tương tự như vậy, đó là tiển trả công lao động. Nếu thay đổi máy móc, mỗi tháng có thể thu 100 đồng hoặc 1000 đồng thì 98 đồng hoặc 998 đồng thu được là sức sản xuất của máy móc, không phải sức lao động của cá nhân. Những người đầu tiên phát minh ra máy móc đã bỏ mất quyền phát minh nên máy móc trở thành vật công hữu của nhân loại. 98 đồng hoặc 998 đồng đó phải thuộc về quyền quản lý của nhân loại. Trước đây tiền đó thuộc chủ nhà máy, đó là xâm chiếm vật công hữu nên cần công hữu, công lao động của người thợ được trả ngang giá ngang sức, lợi nhuận do máy móc sinh ra quy toàn xã hội sử dụng mới là hợp lý
Điều 3: Lao động trí óc và lao động tay chân: Trên đời chỉ có thân thể cá nhân là vật tư hữu. Nhưng thân thể có hai loại lao động: Sức lao động bằng trí óc và lao động bằng tay chân. Hai lao động bằng trí óc và lao động bằng tay chân. Hai loại lao động đó là vật tư hữu của cá nhân. Xã hội muốn dùng nó phải thù lao thỏa đáng và các cá nhân có toàn quyền muốn bán hay không, không ai được ép buộc
Theo cách nhìn nhận ở trên, ta có thể định ra một nguyên tắc: Sức sản xuất của quả đất và sức sản xuất của máy móc quy công hữu xã hội, sức lao động của trí óc và tay chân quy tư hữu cá nhân. Theo nguyên tắc ấy để cải cách chế độ kinh tế thì xã hội và cá nhân yên ổn với nhau
Smith chủ trương tự do kinh doanh, lao động trí óc và lao động chân tay của cá nhân được phát triển hết mức, chủ trương này hợp lý nhưng đồng thời ông chủ trương người có tiền có thể mua đất để phát canh thu tô, mua máy móc để mở nhà mày thì tránh sao khỏi vật công hữu biến thành vật tư hữu. Chỉ có chủ nghĩa dân chủ của Trương Sơn tiên sinh là của công quy công, của tư quy tư, hay hơn Smith và Mác, cho nên kinh tế thế giới chia thành 3 trường phái: Phái Smith là cá nhân chủ nghĩa, phải của Mác là xã hội chủ nghĩa, Trung Sơn tiên sinh dung hợp cá nhân chủ nghĩa và xã hội chủ nghĩa thành một phái
Mác nói cộng sản, Trung Sơn tiên sinh nói cộng sản; Mác là “Cộng sản hiện tại”, Trung Sơn tiên sinh là “Cộng sản tương lai”, Mác là “Thu quy công hữu”, Trung Sơn tiên sinh là “Mua quy công hữu”; bây giờ theo di huấn của Trung Sơn tiên sinh, ta định ra một quy tắc “Tiền tệ có thể tư hữu, đất đai và máy móc không thể tư hữu”. Vì vậy đất đai, xưởng máy của tư nhân phải quy công hữu. Đó là “Cộng sản tương lai không phải là cộng sản hiện tại”. Trong cả nước có biết bao nhiêu nhà máy, đất đai vô cùng rộng lớn, tiền để trưng mua từ đâu mà có?
Do vậy đầu tiên phải đinh ra một pháp lệnh: “Ngân hàng do nhà nước lập ra, tư nhân không được lập ngân hàng. Nhân dân có tiền gửi ở ngân hàng, người cần tiền vay ở ngân hàng. Người nào tư túi cho mượn tài khoản vay, pháp luật không cần bảo vệ, do mượn tài khoản mà đến kiện tụng thì tịch thu quy công. Có khoản tiền lớn để ở nhà mà bị mất cướp, dù kẻ trộm cướp bị bắt, khoản tiền ấy cũng bị tịch thu. Người có tài khoản gửi ngân hàng nước ngoài, sau khi xét rõ tước quyền quốc tịch. Hoa kiều ở nước nào sẽ lập chi nhánh ngân hàng quốc gia ở nước ấy, tài khoản Hoa kiều gửi vào đấy, ngân hàng nhà nước sẽ chuyển sang ngân hàng nước ngoài, tư nhân không được lưu giữ tài khoản ấy”. Như vậy tiền của nhân dân tập trung vào ngân hàng quốc gia thì sẽ có tiền dùng vào mọi việc. Lãi suất hàng tháng của ngân hàng tùy tình hình mỗi lúc mà ổn định. Ví dụ: Tiền gửi vào lãi suất là 1%/tháng mà cho vay lãi suất là 1,5 – 2% tháng thì khác nào có tiền cho vay và nộp thuế, chênh lệch lãi suất giữa tiền gửi và cho vay thuộc về của công
Ở Thủ đô có ngân hàng trung ương, tỉnh có ngân hàng tỉnh, huyện có ngân hàng huyện, dưới huyện có ngân hàng thôn và khu. Khi ngân hàng đã được xác lập thì sẽ có tiền thu mua những gì thuộc về công hữu
1/ Bãi bỏ tất cả ngân hàng tư nhân, cổ phần còn lại nhập ngân hàng quốc gia tính theo lãi suất hàng tháng
2/ Tất cả các nhà máy, tàu thuyền, đường sắt tàu lửa, hầm mỏ đều quy công hữu, tính thành vốn tồn nhập ngân hàng quốc gia. Giám đốc và viên chức vẫn là người cũ, lợi nhuận nộp vào ngân sách nhà nước, thủ tục rất đơn giản
3/ Mậu dịch quốc tế quy công, mậu dịch trong nước quy tư. Hàng xuất khẩu dân bán cho nhà nước, nhà nước bán cho nước ngoài. Hàng nhập khẩu nhà nước bán về cho dân, việc tiêu thị hàng hóa ấy không cần đánh thuế nữa. Người nước ngoài đặt hàng nhà máy trong nước, nhân dân không được trực tiếp giao dịch với họ. Như vậy không cần đánh thuế, hàng ngoại nhà nước mua vào 100 đồng bán ra cho dân 150 đồng hoặc 200 đồng thì đã lời 50 đồng hoặc 100 đồng rồi. Hàng ngoại nên  mua thứ gì, không mua thứ gì, nhà nước cần tính toán, xuất nhập khẩu cân bằng, nước ta và nước ngoài hai bên cùng có lợi. Sau khi đã định ra được 4 biện pháp ấy thì định ra nguyên tắc theo nhân khẩu trong nước mà cấp sinh hoạt phí để duy trì được mức sống thấp nhất. Nhân dân đã nộp lợi nhuận ruộng đất, máy móc, ngân hàng, mậu dịch cho nhà nước thì nhà nước phải bảo đảm quyền sinh tồn cho nhân dân. Cách mạng nước Pháp về chính trị đòi hỏi nhân quyền, chúng ta cải cách chế độ kinh tế phải chú trọng quyền sinh tồn. Trung Sơn tiên sinh chia mức độ sinh hoạt thành 3 bậc:
1/ Cần thiết tức sinh tồn
2/ Dễ chịu
3/ Xa xỉ
Chế độ kinh tế bây giờ, nhân dân một khi gặp rủi ro thì sẽ chết đói chết rét, chữ “Chết” là điểm dừng chân rồi mới mong sinh tồn, mong dễ chịu, mong xa xỉ. Sinh tồn là trong tâm của xã hội, mọi người có sinh tồn thì trọng tâm mới ổn định. Cải cách xã hội giống như chữa bệnh, đau bộ phận nào chữa bộ phận ấy, chỗ không đau đừng đụng dao kéo vào. Trong chế độ kinh tế cũ, đem đất đai, máy móc, ngân hàng, mậu dịch quốc tế quốc hữu hóa, đó là chữa bệnh từng phần; còn những bộ phận khác tuy thủ cựu, sinh hoạt cá nhân không hại đến xã hội thì đừng can thiệp, đó là cách không đụng dao kéo vào những chỗ không đau trong chữa bệnh. Theo cách này thì chủ nghĩa cá nhân và chủ nghĩa xã hội được điều hòa, chủ nghĩa dân chủ của Trung Sơn tiên sinh có thể được thực hiện
Trung Sơn tiên sinh nhiều lần có nói: “nước Trung Hoa là công ty lớn của 450 triệu dân, chúng ta là những cổ phần trong công ty đó”. Cách nói đó rất là hay, thế thì 450 triệu dân là 450 triệu cổ phần, mỗi người một cổ phần, sinh thêm một người thì thêm một cổ phần, chết đi một người bớt đi một cổ phần, quyền cổ phần rất rõ ràng. Cấp sinh hoạt phái là theo lợi nhuận các cổ phần thu được trong năm. Những người phục vụ xã hội, lao động trí óc, lao động chân tay được trả lương phù hợp, tức là do phục vụ trong công ty cổ phần, ngoài các sinh hoạt phí ra, còn được thù lao thỏa đáng. Cách tổ chức này không chỉ theo chế độ lao động và tư liệu sản xuất mà theo quy luật tự nhiên. Xin nói rõ như sau:
I/ THEO CÁCH PHÂN PHỐI HUYẾT DỊCH TRONG THÂN THỂ CON NGƯỜI:
Bộ phận trong cơ thể con người càng lao động nhiều thì huyết dịch rót đến càng nhiều, bù đắp phần mất đi và có dự thừa. Do vậy bộ phận lao động ấy càng nẩy nở, đó là phương pháp thân thể thưởng công cho lao động. Do vậy với người lao động trong nước cũng cần được thù lao tốt hơn. Ở thân thể con người có những bộ phận vô dụng như cái vú của đàn ông không dùng làm gì, nhưng đã sinh ra vẫn phải cung cấp huyết dịch, nhưng vì nó khônglàm gì nên cung cấp ít thôi, do vậy dần dần cái vú của đàn ông teo đi. Cũng vậy, bất cứ người Trung hoa nào đều được cấp sinh hoạt phí để duy trì mức sống tối thiểu, kẻ không lao động không chết là được. Ăn uống từ miệng vào, nôn mửa từ miệng ra, ăn uống rồi ở trong bụng tiêu hóa ra sao, vận chuyển thế nào, gân não đều không biết. Cũng như vậy mậu dịch quốc tế do nhà nước chi phối, mậu dịch trong nước do nhân dân kinh doanh là lẽ như vậy
II/ THEO CÁCH BẦU TRỜI PHÂN PHỐI MƯA MÓC:
Trong thiên nhiên, ánh sáng mặt trời chiếu xuống ao hồ, sông biển, cây cỏ trên đất, hút hơi nước nên biến thành mưa rồi rơi xuống đất làm cho đất không khô mà nhuần nhị. Dù đất đai, sông ngòi, ao hồ, không cần mưa vẫn theo quy luật tan hợp ấy. Hay nhất là cây cỏ ngậm hơi nước, bốc lên, được trả lại, qua nhiều lần như vậy bỗng lớn lên. Những cành khô cây mục, cũng theo quy luật tan hợp ấy nhưng không lớn lên được là tự tước mất quyền được hưởng mưa móc rồi. Nước mưa rơi xuống đất, được rễ của cây cỏ hút lại, không có hạn chế, hút được nhiều hay ít là tự gốc cây, thiên nhiên là hào phóng. Cũng vậy thu nhập từ đất đai, nhà máy, ngân hàng và mậu dịch quốc tế đều rút ra từ mỗi người dân ra, ngoài chi phí công cộng ra thfi người giàu người nghèo, người già, người trẻ, người lao động hoặc không lao động đều được cấp sinh hoạt phí còn cơ hội làm giàu thì ai cũng có, đó là cách phân phối theo mưa vô tư nhất
Nếu hiến pháp quy định đất đai, nhà máy, ngân hàng và mậu dịch quốc tế đều được công hữu hóa thì chế độ binh dịch, chế độ lao dịch, thuế thu nhập, thuế di sản cần được bãi bỏ. Ai đi lính, ai đi lao dịch cần được trả công phù hợp, áp dụng chế độ binh dịch, lao dịch là xâm phạm quyền tư hữu về thể lực. Do lao tâm lao lực, mới kiếm tiền của để lại cho con cháu, đó là chính đáng, nếu thu thuế di sản là xâm phạm quyền tư hữu lao động tay chân và lao động trí óc
Có người lo rằng không đánh thuế di sản sẻ đẻ ra nhà tư bản, điều đó không liên can. Các vu ngân hàng, vua ô tô, vua dầu mỏ, vua buôn bán của nước Mỹ, trừ vua ngân hàng Móc – gan ra, đều từ con nhà rất nghèo lên, sự làm giàu của Móc – gan cũng không dựa vào di sản. Họ giàu là do nỗ lực của bản thân, từ kinh doanh đất đai, nhà máy, ngân hàng, mậu dịch quốc tế mà giàu lên. Nếu hiến pháp quy định 4 loại nói trên công hữu hóa, tư nhân không được mua bán thì các vua ấy không làm ăn được, đó là phương pháp căn bản chứ không phải  nhờ thu thế di sản
Quy công hữu đất đai, nhà máy, ngân hàng, mậu dịch quốc tế, nhà đại tư bản không thi thố được đã là hạn chế bớt kẻ giàu, mọi người có sinh hoạt phí không ai chết đói, đời sống nhà nghèo được nâng lên, khoảng cách giữa của giàu và nghèo là mảnh đất cho nhân dân hoạt động
Chủ nghĩa dân chủ của Trung Sơn tiên sinh không chủ trương bình đẳng hàng đầu mà chủ trương bình đẳng là chỗ đứng chân. Do đó kẻ tổ chức kinh tế cũng không chủ trương bình đẳng bằng đầu, mọi người giàu nghèo như nhau mà chủ trương lấy bình đẳng làm chỗ trú chân, ai cũng bình đẳng trong cơ hội làm giàu, muốn nhà nông thuê đất làm công mà làm, muốn người thợ đến nhà máy tìm việc, muốn quan lại, thầy giáo, nhà buôn được tự do làm việc không hạn chế. Có rất nhiều loại lao động khác nhau, người giàu kẻ nghèo là do sự nỗ lực của cá nhân mà có. Có như vậy mới thúc đẩy người ta vươn lên xã hôi mới ngày càng tiền hóa. Đất do địa thế cao thấp không đều, nước mới cuồn cuộn chảy ra biển, nếu mặt đất bằng phẳng và nước không chảy trở thành nước chết

TÔN NGÔ BÀN CHÍNH TRỊ

Nói đến quy hoạch cỡ lớn của một quốc gia tầm mắt ít nhất phải nhìn thấy 500 năm về sau, không thể chỉ là cỡ vài chục năm hoặc một vài trăm năm. Smith viết một quyển sách, thiếu tầm mắt nhìn ấy không  tới trăm năm, bao chuyện đã xảy ra, cách mạng xã hội đã thành hình; do chủ nghĩa tư bản phát triển chiến tranh thế giới lần thứ nhất đã nổ ra, tiếp đó là chiến tranh thế giới lần thứ hai. Nếu tầm mắt ông ta nhìn thấu ngày nay có lẽ ông không nêu ra học thuyết ấy. Khổng Tử vận dụng thuyết nước lớn, tầm mắt nhìn tới mấy nghìn năm sau, nhưng khi bắt tay vào làm từng chi tiết nhỏ, tức là từng bước vẽ ra kiểu dáng kiến trúc cho tất cả nhà cửa. Khổng Tử đã chết hơn hai nghìn năm, thế giới lý tưởng của ông chưa xuất hiện nhưng giá trị học thuyết của ông không vì thế lưu mờ mà càng thấy vĩ đại. Ông nêu lên một mục tiêu. Mấy nghìn năm đi chưa đến, nhưng người mấy nghìn năm sau có đường để đi, không giống như đường Smith, Đác – uyn đi được vài chục năm, một trăm năm là hết. Đi đâu cũng vấp, đảnh phải gây ra chiến tranh, mà chiến tranh đâu giải quyết được vấn đề. Cho nên nước ta ngày nay ban hành hiến pháp, phải có kế hoạch tầm xa, trong đó có những điều nhất thời chưa thực hiện được, định ra mục tiêu, mọi người theo đó đi, bước đi không lập chập mới không vấp ngã
Về chính trị, Tôn Ngô cho rằng cần theo chế độ dân chủ cộng hòa. Biện pháp rất đơn giản, chỉ đem chế độ quân chủ chuyên chế đích thực đảo ngược lại thành chế độ dân chủ cộng hòa đích thực. Nước quân chủ chuyên chế, một người làm vua, còn nước dân chủ cộng hòa thì 450 triệu người làm vua. Đem quyền một ông vua, cắt thành 450 triệu mảnh ghép lại thành một ông vua, thì phải nghiên cứu cách điều hành của mỗi mảnh ông vua ấy như thế nào
Ông Vua ngày xưa muốn cải cách một việc thì đem chủ trương của ông giao cho viện quân cơ, các đại thần ở viện quân cơ bàn và quyết rỗi cho các tỉnh, huyện, thôn, xã thực hiện, cách làm đó từ trên xuống dưới. Nước cộng hòa dân chủ lấy thôn xã làm nghị hội, nhân dân làm viện quân cơ, các nghị viện của thôn xã là đại thần của viện quân cơ của dân. Nhân dân muốn cải cách một việc quốc gia thì giao cho nghị hội thôn, các nghị viện của nghị hội thôn sau khi bàn bạc nghị quyết giao cho nghị viện khu rồi lên nghị hội huyện, nghị hội tỉnh đến quốc hội nghị quyết thi hành. Biện pháp này từ dưới lên trên, trái người với hình thức quân chủ chuyên chế
Thời quân chủ chuyên chế, các nghị quyết án của cơ quan đại thần được vua phê chuẩn mới thi hành. Thời cộng hòa dân chủ, nghị quyết của quốc hội phải qua nhân dân bỏ phiếu công nhận mới được thi hành, việc nhỏ do quốc hội thông bàn và thi hành, việc cực lớn do nhân dân bỏ phiếu quyết định nhưng khó khăn nhất là làm thế nào để 450 triệu dân bỏ phiếu, bày tỏ ý kiến của mình mà không bị thao túng mua chuộc, việc này cần nghiên cứu thêm
Việc cần làm là chỉnh đốn hộ tịch. Mỗi huyện phân mấy khu, mỗi khu phân mấy thôn, mấy thôn phân mấy bảo, mỗi bảo phân mấy giáp, mỗi giáp là 10 nhà. Mỗi người không phân biệt  giả trẻ trai gái đều có quyền bỏ phiếu cho đến chết thì thôi. Mỗi nhà do chủ hộ làm đại diện. Ví dụ nhà ông A có 10 người thì lá phiếu ông A bỏ là 10 phiếu, nhà ông B có 8 người thì coi là 8 phiếu, dùng tờ phiếu kép ghi tên bỏ phiếu, nhà ông B 8 phiếu phủ quyết… cộng lại giáp này có bao nhiêu phiếu biểu quyết, bao nhiêu phiếu phủ quyết, các gia đình mang phiếu lưu trữ đến đối chiếu lại thấy không sai thì trưởng giáp đưa lên trưởng bảo, trưởng bảo yết bảng, giáp 1 có bao nhiêu phiếu biểu quyết, bao nhiêu phiếu phủ quyết, giáp 2 có bao nhiêu phiếu… sau đó đưa lên trưởng khu, rồi lên huyện, lên tỉnh, lên trung ương, từng nơi đều yết bảng, cuối cùng theo số đông quy định. Đó là nói chuyện lớn quốc gia, còn chuyện của tỉnh huyện cugnx làm theo cách ấy
Nhân dân nước ta đều ít quan tâm tới quốc sự, muốn họ quyết định việc lớn, phân định đúng sai, họ thường không hiểu, nên cần huấn luyện chính trị. Trách nhiệm huấn luyện chính trị là các nghị viện thôn. Nghị viện thôn vừa là đại thần cơ mật, vừa là thái sư, thái phó, thái bảo. Họ là những người có tri thức cao hơn nông dân, họ hiểu rõ việc nước hơn. Trước khi quyết định việc lớn của đất nước, đầu tiên các nghị viện thôn giảng giải nội dung để nhân dân hiểu rõ nguồn gốc, còn việc bỏ phiếu do từng người tự viết vào phiếu, trưởng giáp đến thu, nhân dân có việc gì đề xuất cùng nêu kiến nghị với nghị viện thôn, chỗ nào không rõ thì chất vấn, cách này rất tiện lợi cho dân
Bầu tổng thống do 450 triệu dân bỏ phiếu, lúc bỏ cũng lấy chủ hộ làm đại biểu. Mỗi phiếu nêu 3 người, nếu người bỏ phiếu chỉ ưng 1 – 2 người làm tổng thống thì chỉ viết 1 – 2 người đó. Ví dụ trên phiếu ghi nhóm ông Triệu Nhất 3 người, nhà Ông A có 10 khẩu đồng ý thì nhóm ông Triệu Nhất được 10 phiếu, nếu trên phiếu nêu nhóm ông Tiền Nhị, 2 người nhà ông B có 8 người đồng ý thì ông Tiền Nhị được 8 phiếu. Dùng tờ kép ghi tên bỏ phiếu. Trưởng giáp đến các nhà thu phiếu, yết bảng công bố ông Triệu Nhất được x phiếu, ông Tiền Nhị được y số phiếu… Giáp thứ hai, ông Tôn Tam được x phiếu, ông Lý Tứ được y phiếu.. cộng lại gửi lên bảo, bảo gửi lên khu, lên trung ương, người nào được nhiều phiếu nhất là tổng thống, người nhiều phiếu thứ hai là phó tổng thống. Nhiềm kỳ tổng thống 4 năm, nếu giữa chừng ốm chết hoặc bị bỏ phiếu bãi chức thì phó tổng thống thay cho đến hết 4 năm thì thôi. Tổng thống thứ nhất từ ngày này tháng này nhận chức, đủ 4 năm sau, cũng ngày ấy tháng ấy tổng thống mới nhận chức. Tổng thống cũ nếu được nhiều phiếu thì tái nhận chức. Nhân dân muốn chất vấn tổng thống, thì nêu vấn đề chất vấn ở hội nghị thôn, nếu được biểu quyết đồng ý thì đứng danh nghĩa toàn thôn gửi lên hội nghị khu; nếu hội nghị khu biểu quyết thì đứng danh nghĩa toàn khu gửi lên huyện, cũng vậy mà lên tỉnh, lên quốc hội; quốc hội thảo luận biểu quyết thì thành lập bản chất vấn đưa cho tổng thống để ông ta trả lời. Sau đó quốc hội đem bản chất vấn và bản trả lời của tổng thống in thành sách, phát cho toàn dân xem và phán quyết. Với tổng thống lưu nhiệm hoặc bãi nhiệm đều do bỏ phiếu, theo cấp yết bảng, cuối cùng theo số đông. Việc lựa chọn, bãi nhiệm tỉnh trưởng, huyện trưởng cho tới bảo trưởng, giáp trưởng có thể theo phương pháp này
Tổng thống làm trái hiến pháp, qua bỏ phiếu có thể bãi chức. Sau đó giao cho tòa án xử tội, có thể tới mức xử bắn. Nhưng khi Tổng Thống chưa bị bãi chức, tất cả mệnh lệnh của ông ban bố trong phạm vi chức quyền, ai không phục tùng làm trái lại, tổng thống xử lý theo luật
Nước cộng hòa dân chủ theo nguyên tắc luật pháp của chế độ quân chủ, nhưng lấy quyền của vua đặt vào tay nhân dân. Thời quan chủ, tri huyện có quyền tư pháp. Bây giờ và sau này vẫn giao quyền tư pháp cho huyện trưởng. Huyện trưởng mời một vị tinh thông pháp luật làm quan tư pháp, quan tư pháp chịu trách nhiệm trước nhân dân. Nếu xét xử không công minh, nhân dân khiếu tố hoặc đòi thay huyện trưởng. Ngày xưa cửa quan đen tối, dân ai cũng biết, ngày nay, cơ quan tư pháp cũng dễ mua chuộc. Thông thường sự thật các vụ án nhân sĩ địa phương đều biết mà kết quả điều tra của pháp quan có khi ngược lại. Từ nay về sau, trách nhiệm đều tra và hòa giải nên giao cho khu trưởng và thôn trưởng. Tuy nhân dân có việc tranh chấp, trước tiên báo cáo với thôn trưởng, thôn trưởng điều tra minh bạch thì hòa giải, nếu không chấp thuận thì báo khu trưởng. Thôn trưởng làm tờ báo cáo nói rõ kết quả điều tra, tình hình hòa giải gửi cho khu trưởng, khu trưởng điều tra lại, lại hòa giải, nếu không chịu thì báo cáo lên huyện trưởng. Khu trưởng cũng gửi văn bản lên huyện trưởng, nếu ở huyện giải quyết vẫn không chịu thì đưa lên tỉnh, lên trung ương. Thôn trưởng, khu trưởng khi hòa giải có thể theo luật của tỉnh mình, từ huyện trở lên giải quyết theo luật pháp nhà nước
Với cơ quan nào có dân nghi vấn, có thể xin được điều tra. Ví dụ giáp nào thấy cục mậu dịch quốc tế hoặc ngân hàng trung ương có điều gì khuất tất thì có thể nêu với nghị hội thôn “cục này hoặc ngân hàng này có điểm nghi vấn, chúng ta phải điều tra”. Nghị hội thôn tìm hiểu kỹ ra nghị quyết gửi lên khu nghị hội thôn là thôn tôi muốn cử giáp này đi điều tra sự việc
Khu nghị hội quyết định gửi lên huyện, rồi lên tỉnh, lên trung ương. Quốc hội họp ra nghị quyết thfi báo cho cục ấy, ngân hàng ấy chờ kiểm tra. Giáp ấy kiểm tra thấy có tội thì làm bản khởi tố, nếu không có khuyết điểm thì công bố lên báo chí “Điểm chúng tôi nghi vấn, đã kiểm tra, không có sai sót”. Nếu không khởi tố và không công bố trên báo là cơ quan ấy không có khuyết điểm thì giáp ấy phải chịu xử phạt. Với các cơ quan, nhà máy trong tỉnh, trong huyện cũng có thể làm theo cách này
Hiện nay có hai trào lưu là chủ nghĩa dân chủ và chủ nghĩa độc tài xung đột với nhau. Nếu không đem hai chủ nghĩa ấy dung hợp lại thì không tránh khỏi xung đột. Trung Sơn tiên sinh thường nói: “Nước Mỹ khi bắt tay xây dựng hiến pháp, kẻ chủ trương phân quyền cho địa phương cho rằng tính người không thiện, kẻ chủ trương tập quyền vào trung ương cho rằng tính người không phải tất cả điều thiện; cho nên xung đột của chủ nghĩa dân chủ và chủ nghĩa độc tài là sự xung đột cái thiện và cái ác”. Nhưng tính người vừa không thiện vừa không ác, cho nên lúc xây dựng hiến pháp nên kết hợp giữa phân quyền cho địa phương và tập quyền cho trung ương
Nếu biện pháp nói trên được thực hiện thì 450 triệu dân nước ta có 450 triệu lực tuyến, các lực tuyến này chạy thẳng tới trung ương, thành một chính phủ có hợp lực rất mạnh mẽ. Mệnh lệnh do Tổng thống đương chức ban ra, nhân dân phải tuyệt đối phục tùng giống như một Hoàng Đế chuyên chế, đó là chủ nghĩa độc tài. Việc Tổng thống đi hay ở nằm trong tay dân, công việc cải cách quốc gia do dân quyết, đó là chủ nghĩa dân chủ. Như vậy, hai trào lưu có thể dung hợp
Ngày nay chính đảng nào cũng muốn giành chính quyền, việc tranh đoạt đầu tiên là ghế Tổng thống, nên việc bầu Tổng thống nên để lại sau cùng; những điều hiến pháp ban hành nên thực nghiệm ở thôn, ở khu trước. Ở thôn, ở khu thông thuận thì ở huyện, ở tỉnh, ở quốc gia cũng thông thuận
Thực hiện hiến pháp, lấy thông làm khởi điểm, toàn quốc là điểm cuối cùng, cho dân chọn thôn trưởng làm khởi điểm, chọn Tổng thống làm điểm cuối cùng. Như vậy thúc đẩy những người nhiệt tình tham gia chính quyền trở về hàng xóm đứng chân làm việc, có vậy nền móng chính trị dân chủ mới thực sự vững chắc. Từ đó phát triển dần lên huyện, lên tỉnh, lên trung ương. Sau khi hoàn chỉnh hệ thống tổ chức này, các chính đảng tự nhiên tự thủ tiêu. Nếu còn chính đảng cũng chỉ là một dạng đoàn thể mang tính học thuật, không thao túng được chính quyền quốc gia. Họ đem chính kiến của mình viết thành sách, tuyên truyền rộng rãi trong cả nước để nhân dân tìm hiểu thu nạp. Các đảng phái có quyền cạnh tranh bình đẳng với nhau. Nó giống như các sách học thuyết của Khổng Tử, Mạnh Tử được chu du ở các nước, các vị ấy được đi du thuyết ở các nước chư hầu

TÔN NGÔ TRẢ LỜI PHỎNG VẤN

Hỏi: Tiên sinh có thể tạm thời không nói “Hậu Hắc Học”, chuyên đi vào viết sách và phát huy học thuật văn hóa, howngs dẫn người đời có hơn không?
Trả lời: Không thể được. Hơn mười năm qua, nhiều bạn bè đã khuyên tôi đừng nói Hậu Hắc nữa. Nào ai biết Hậu Hắc chỉ “Nói được không làm được”, chúng ta không ứng dụng được thì không thể không nói: Không nói trong lòng thấy ấm ức. Nếu muốn khuyên tôi không nói “Hậu Hắc” khác nào khuyên Công Tôn Long không nói: “Ngựa trắng không phải là ngựa”, điều đó không thể được. Tôi vốn theo tín điều “Nói được không làm được” ra sức phát huy triết lý “Hậu Hắc Học” để lập học phái mới, thử hỏi có ai độc tôn , đáng tự hào hơn tôi không? Xưa nay chân lý chỉ có một, người nhân gặp nhân, người trí gặp trí; nhân nghĩa của Khổng Mạnh, đạo đức của Lão Tử, từ bi bác ái của Phật và GiêSu, Hậu Hắc của Lý Tôn Ngô đều là một chân lý, chỉ có cách nói không giống nhau. Nếu mỗi người có phát minh riêng, mỗi người lập một học thuyết, không vay mượn của nhau thì sẽ lưu lại muôn đời. Như vậy so với người gặp thời đắc chí còn hơn nhiều lần, hà tất phải bon chen với đời. Mấy lần anh viết thư khuyên tôi đừng nói Hậu Hắc, sợ rằng tiền đồ của tôi bị trở ngại, tôi nghĩ rằng bây giờ những người truyền đạo gia tô gặp muôn vàn khó khăn, có khi phải “Tử vì đạo”, tại sao giáo chủ lại không dám nói Hậu Hắc nhỉ?
Hỏi: Tiên sinh kinh luân đầy bụng, là một Khổng Minh Gia Cát thời nay, tiên sinh tự đánh giá như thế nào?
Cười và trả lời: Khổng Minh không đáng để nói, tên tuổi của ông ta cao quá rồi, chỉ riêng việc dùng binh mà nói, ông ta không bằng tiên đế, chẳng qua tiên đế mượn ông ta để khuất phục những người đầu óc giản đơn Quan, Trương, Triệu, Hoàng mà thôi; thực ra ông ta còn bị tiên đế nắm trong lòng bàn tay. Chiến dịch phạt Ngô, tiên đế sao không sai Khổng Minh đem quân đi? Khổng Minh dùng Mã Tốc giữ Nhai Đình thật là sai lầm lớn (Đáng lẽ dùng Ngụy Diên); quân bị thua bèn giết Mã Tốc, sai lầm càng lớn hơn; thế nước Thục mất, lúc giết Mã Tốc đã thấy nguyên nhân. Khổng Minh bất tài như vậy, có gì đáng nói
Hỏi: Theo tiên sinh, từ xưa đến nay ai đáng noi theo?
Trả lời: Tôi đã từng nói lời của Khương Thái Công mà. Xưa đến nay người đáng noi theo chỉ có mình ông ấy, Thái Công tuổi đã 80 còn giúp được Chu diệt Thương, đó là một kỳ tích. Về sau Tô Tần đọc kinh Âm Phù của ông ấy mà hợp sáu nước, Trương Lương dùng binh pháp của ông ta để diệt Tần Sở. Thử hỏi: “Ông Tổ Hậu Hắc, không phải Thái Công còn ai nữa? Bỉ Nhân là học trò con cháu trăm đời sau của ông ta, muốn vạch ra bí quyết nghìn năm không truyền lại, mong sao sáng trước rạng sau thôi”
Hỏi: Có thể nói con đường nghiên cứu học thuyết của tiên sinh không?
Trả lời: Cách nghiên cứu của tôi, theo cách Bát Cổ, giải đề cắt nghĩa phù hợp với lôgic biện chứng pháp. Hậu Hắc và mọi tác phẩm của tôi đều từ đấy suy luận ra
Hỏi: Tiên sinh không nói đùa chứ!
Trả lời: Không phải nói đùa, đúng thực tôi có pháp bảo của Bát Cổ. Nếu không tin, sau này cứ nghiên cứu cách giải nghĩa của Bát Cổ xem
Hỏi: Tác phẩm của tiên sinh, cái đã xuất bản, cái chưa xuất bản có bao nhiêu?
Trả lời: Đã xuất bản có “Hậu Hắc Học”, “Hậu Hắc Tùng Thoại”, “Tôn Ngô Ức Đàm”, “Bàn về vấn đề xã hội”, “Lập hiến pháp và kháng Nhật”, “Xu thế học thuật của Trung Quốc”, “Tâm lý và lực học”, “Ghi chép về Khổng Tử mở trường học”, “Kỳ án đánh Hiệu Trưởng”, “Khổng Tử đại chiến”, “Triết học sợ vợ”. Hiện nay đang viết và đã viết xong chưa xuất bản có “Nghiên cứu đặc tính dân tộc Trung Quốc”, “Tôi hiểu về chính trị và kinh tế”, “Ghi chép mở đầu kết thúc cách mạng ở trung học tư thục Tữ Tỉnh”, “Linh Tính và điện tử”, “Vu lão tùy bút”.v.v… nói đạo lý chính thống có năm cuốn “Bàn về vấn đề xã hội”, “Bàn về chế độ thi cử”, “Lập hiến pháp và kháng Nhật”, “Xu thế học thuật Trung Quốc”, “Tâm lý và lực học”. Những sách đạo lý khác, chưa ra đời nên không nói. Thực ra tôi già rồi, còn viết sách gì được nữa? Thật không tự lượng sức mình
Hỏi: Thân thế và cảnh ngộ tiên sinh trước nay ra sao?
Trả lời: Khi còn nhỏ tôi là học trò thầy Tô Lượng là một nhà Bát Cổ nổi tiếng ở Phú Thuận, sau lên Thành Đô học toán lý ở trường cao đẳng, từng tham gia Đồng Minh hội
Từ thời Dân Quốc đến nay, làm trưởng khoa đóc học, làm trưởng phòng thanh lý tài sản các quan trong tỉnh, được cử làm giám đốc hải quan trùng khánh nhưng chưa nhận chức, sau làm huyện trưởng huyện Phú Thuận, tỉnh Cẩm Dương. Sau lại làm đốc học tỉnh nhiều năm, đi khảo sát công tác giáo dục ở các tỉnh ngoài Tứ Xuyên. Sau Bắc phạt, làm ủy viên biên soạn đại chí huyện, tỉnh, năm ngoái từ chức về nhà. Lúc nhỏ sinh ra trong gia đình nghèo, qua một thời gian phấn đấu tích cóp tạm gọi là đủ ăn. Sinh được hai con, con trưởng có tài năng, từng nhận chức cục trưởng giáo dục Phú Thuận rồi làm hiệu trưởng trường trung học Tự Tỉnh, con thứ từng học trường công nghiệp Thành Đô. Không may mấy năm gần đây hai con lần lượt chết cả, hiện còn bà vợ, con dâu góa bụa, ba cháu trai, bốn cháu gái, mời gia sư dạy các cháu ở nhà. Tình hình gia cảnh của tôi đại khái là như vậy